BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
VÀ
CÁC TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ
KINH TẾ ĐỂ PHỤC VỤ CHO ĐẶC SỦNG VÀ SỨ MỆNH
Như những người quản lý tốt ân sủng đa dạng của Thiên Chúa (1Pr 4,10)
DẪN NHẬP
1. Như người quản lý tốt ân sủng đa dạng của Thiên Chúa, mỗi người, theo ơn riêng đã lãnh nhận, phải dùng để phục vụ người khác (1 Pr 4,10).
Thư thứ nhất của thánh Phêrô đối chiếu đến cảnh thù nghịch vào cuối thế kỷ thứ nhất mà các cộng đoàn Kitô hữu tản mác trong đế quốc Roma phải chịu: ở một thời khắc thử thách đặc biệt đối với Giáo Hội, Giáo Hội nhận được một bản văn với giá trị thần học cao sâu. Bản văn hướng tới các Kitô hữu xuất thân từ ngoại giáo, tới những người xa lạ đã được chọn tại Ponto, Galazia, Cappadocia, Asia và Bitinia (1,1). Thánh Phêrô muốn khích lệ họ hãy đứng vững trong ân sủng của Thiên Chúa (5,12), khuyên nhủ họ hãy vững vàng, hãy kiên trì bền đỗ (1,13; 4, 19; 5,7-8) đứng trước các thử thách và khó khăn.
Đặc biệt là chương 4 được trình bày trong ba bức tranh. Bức thứ nhất làm nổi bật sự song chiếu giữa đau khổ mà Đức Kitô đã chịu nơi chính xác thịt Ngài và những tâm tình phải sống động nơi các người Kitô hữu (c. 1-2); bức thứ hai nói đến nét khác biệt của người Kitô hữu trong khung cảnh xã hội họ đang sống (c. 3.- 6); và bức tranh cuối cùng khởi đi từ nhãn quan cánh chung và hướng sự chú ý tới năng động tính hiệp thông trong đời sống Kitô hữu với những chỉ dẫn rõ ràng và quí giá (c. 7-11)
Câu 10: Như là người quản lý tốt ân sủng đa dạng của Thiên Chúa, mỗi người, theo ơn riêng đã lãnh nhận, phải dùng để phục vụ người khác, vạch ra dung mạo của người, đã bước theo Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài, được đầy ân sủng của Ngài, nghĩa là biết bao ơn đã được tuôn đổ vào trong cuộc sống của mỗi người tín hữu. Lời mời gọi của thánh Phêrô đó là hãy sống cái ơn riêng (chàrisma), như là người phục vụ (diakonia), bằng cách trở nên người quản lý (oìkonòmoi) của ân sủng (4-10).
Các ơn đã nhận lãnh từ Thiên Chúa được gọi là các đặc sủng, tiếng Hy lạp charis, vốn đến từ động từ charizomai, có nghĩa là: ban tặng, rộng lượng, quảng đại, ban tặng không.
Hạn từ charisma trong Tân Ước được dùng chỉ khi nói tới các ơn đến từ Thiên Chúa. Mỗi một đặc sủng riêng không phải là một ơn ban cho hết mọi người, nhưng là một ơn đặc biệt mà Thánh Thần phân phát “tùy như Ngài muốn” (1 Cr 12, 11) 1
Vì vậy, người Kitô hữu được kêu gọi trở nên người quản lý, quản trị ân sủng đa dạng vốn thể hiện qua nhiều đặc sủng, và người ấy được gọi để dùng nó mà làm ích cho mọi người. Mỗi một ơn ban là một sự tuôn trào của gia sản vô biên của ân sủng từ phía Thiên Chúa, do đó, mỗi phần tử của cộng đoàn, được phong phú nhờ ơn ban đó, trở nên phần tử tích cực và đồng trách nhiệm về đời sống cộng đoàn, biết rằng những gì có sẵn cho mình không phải là của mình, nhưng là một quà tặng để gìn giữ, làm sinh hoa trái với một mục tiêu duy nhất: đó là ích lợi chung, “bởi vì chỉ khi cùng với nhau, mới có thể đạt tới ích lợi chung, làm gia tăng và giữ gìn ích lợi chung đó, cả hướng về tương lai nữa”. 2 Ích lợi chung làm cho sự đa dạng của các tặng ân trở nên mạng lưới, để người này phục vụ người kia, qua đó kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện để mưu ích cho mọi người nam nữ.
2. Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Giáo Hội “là người quản lý trung tín và khôn ngoan, có nhiệm vụ chăm sóc cần mẫn những gì đã được trao phó cho mình”. Thật vậy, Giáo Hội “ý thức về trách nhiệm giữ gìn và quản trị với sự chăm chú các của cải của mình, trong ánh sáng của sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và với sự cần mẫn đặc biệt chăm lo cho những người thiếu thốn” 3.
Thời điểm lịch sử hiện tại với sự giảm sút các ơn gọi và sự khủng hoảng kinh tế kéo dài mời gọi đời sống thánh hiến nhìn lại mình. Tình trạng ấy thúc đẩy chúng ta nhận lấy trách nhiệm với tính thực tế, tin tưởng và hy vọng. Trách nhiệm ấy là lời mời của một thế giới đang cần một sự canh tân văn hóa sâu xa và cần tái khám phá các giá trị nền tảng trên đó xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Cuộc khủng hoảng buộc chúng ta phải tái vạch định hành trình của chúng ta, đặt ra cho mình những qui luật mới và tìm những hình thức dấn thân mới, chú tâm tới những kinh nghiệm tích cực và loại bỏ những kinh nghiệm tiêu cực. Như thế, cuộc khủng hoảng trở thành cơ hội cho sự phân định và lối hoạch định mới. Với chủ lực này, cần phải có sự tin tưởng hơn là sự cam chịu, để đối diện sự khó khăn của thời điểm hiện tại” 4
Trong nhãn quan này, các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ, được mời gọi để trở thành những người quản lý tốt về các đặc sủng đã lãnh nhận từ Thánh Thần kể cả qua việc điều hành quản trị và quản lý các tài sản.
3. Những năm gần đây không ít các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ đã phải đương đầu với những vấn đề kinh tế. Chúng ta có thể nói rằng cùng với sự giảm sút ngày càng tăng về nguồn lực thì cũng gia tăng những khó khăn. Một sự chuẩn bị không đủ và một sự thiếu vạch định đã thường là nguyên nhân đưa tới các chọn lựa mang tính kinh tế vốn không chỉ khiến cho tài sản bị gặp nguy hiểm, mà cả sự sống còn của chính các Tu Hội. Bộ các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ, ý thức được tình trạng này, đã khuyến khích các Tu Hội và Tu Đoàn có một ý thức lớn hơn về tầm quan trọng của vấn đề kinh tế, Bộ đã cung cấp những tiêu chuẩn và hướng dẫn thực tiễn về việc điều hành quản trị tài sản.
Trong bối cảnh ấy, đã có hai Hội nghị quốc tế về điều hành quản trị tài sản. Hội nghị thứ nhất lấy đề tài Điều hành quản trị tài sản của các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ để phục vụ con người và sứ mệnh của Giáo Hội, 5 đã được cử hành vào tháng Ba năm 2014. Theo sau Hội nghị này tài liệu Đường hướng để điều hành quản trị tài sản trong các Tu Hội đời sống thánh hiến và trong các Tu Đoàn đời sống tông đồ6, được ấn hành ngày 2 tháng 8 năm 2014. Đường hướng và những nguyên lý để điều hành quản trị tài sản được cống hiến “như là một hỗ trợ để các Tu Hội có thể đáp ứng với sự mạnh dạn và với tính ngôn sứ được canh tân đứng trước những thách đố của thời đại chúng ta, để tiếp tục là dấu chỉ mang tính ngôn sứ về tình yêu của Thiên Chúa”7
Thời gian tiếp sau đó, Bộ cũng đã chú tâm về ý nghĩa của các công cuộc. Nếu Hội nghị thứ nhất tập trung tới khả năng về báo cáo và bổn phận gìn giữ tài sản, sự canh chừng và kiểm soát của các Bề trên, thì Hội nghị thứ hai, được cử hành vào tháng 11 năm 2016, lại chú trọng tới ý nghĩa đặc sủng: Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy nghĩ về kinh tế.
4. Đi theo đường hướng của Huấn quyền của Đức thánh cha Phanxico, văn kiện này – tiếp nối bản văn của tài liệu Đường hướng – sẽ đề ra:
• đi theo một hành trình suy tư mang tính Giáo Hội về tài sản và sự điều hành quản trị chúng, dùng đến các đóng góp được yêu cầu mà các Bề Trên của các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ, đã gởi về Bộ8;
• Nhắc lại và làm sáng tỏ một số khía cạnh theo qui tắc giáo luật về tài sản vật chất với sự qui chiếu đặc biệt tới thực hành của Bộ các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ;
• Gợi ý một số phương thế để lên kế hoạch và lên chương trình gắn liền với việc điều hành quản trị các công cuộc;
• Thúc đẩy các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ, ở mọi cấp, từ Bề trên tới các thành viên, tái suy nghĩ về kinh tế trong sự trung thành với đặc sủng để có thể “cả ngày hôm nay nữa, trở nên cho Giáo Hội và cho thế giới, như lực lượng tiên phong chú tâm tới mọi người nghèo và mọi loại cùng khốn, vật chất, luân lý và tinh thần, như một sự vượt thắng mọi thứ ích kỷ, theo logic của Tin Mừng, vốn dạy sống tín thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa”.9
I- KÝ ỨC SỐNG ĐỘNG VỀ CHÚA KITÔ NGHÈO KHÓ
Sự nghèo khó của Chúa Kitô, tính mới mẻ của Tin Mừng
5. Sống sự mới mẻ của Tin Mừng «có nghĩa là sống sao để phản chiếu sự nghèo khó của Chúa Kitô, Đấng mà cuộc sống Ngài đặt trọng tâm vào việc thi hành ý Cha và phục vụ người khác»10.
Đức thánh cha Phanxico đã không bỏ qua cơ hội để liên lỉ đưa chúng ta trở lại với trọng tâm là việc theo Chúa Kitô, “cái khao khát rõ ràng nên đồng hình dạng trọn vẹn với Ngài” 11, giống với cuộc sống, giống với sự tự hủy – kénosis của Ngài. Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm của sự nghèo khó: từ giàu có Ngài đã tự trở nên nghèo vì chúng ta (x. 2Cr 8,9). Trên thập giá “sự nghèo khó của Ngài đi tới mức lột bỏ tất cả” 12 cảm nghiệm tới mức sâu nhất mầu nhiệm của tự hủy - kénosis, như người Tôi tớ đau khổ, mà Isaia đã loan báo.
6. «Sự nghèo khó của Đức Kitô ẩn dấu trong nó sự giàu có vô hạn của Thiên Chúa. Đức Kitô không chỉ là Thầy dạy, nhưng cũng còn tiếng nói và bảo chứng của chính sự nghèo khó cứu độ, tương ứng với sự giàu có vô hạn của Thiên Chúa và quyền năng vô tận của ân sủng Ngài»13. Vì thế, sự tự hủy kénosis trở nên như tiêu chuẩn nền tảng cho đời sống của mọi người đã được rửa tội và, càng có lý do hơn nữa, cho mọi người thánh hiến. Sự nghèo khó “được sống theo khuôn mẫu là Chúa Kitô Đấng từ giàu có đã tự trở nên nghèo khó (2 Cr 8,9) trở nên sự diễn tả của quà tặng chính bản thân mà Ba Ngôi thần linh đã thực hiện. Và tặng ân đó chảy tràn vào trong thọ tạo và được biểu lộ tròn đầy trong mầu nhiệm Nhập thể của Ngôi Lời cũng như trong cái chết cứu độ của Ngài»14.
Khi khởi đầu tác vụ của mình, trong Hội đường Nazaret Đức Giêsu đã công bố rằng Tin Mừng được loan báo cho người nghèo (x. Lc 4,18; Is 61,1). Bởi vậy, ai muốn theo Ngài cũng được mời gọi bỏ của cải, nhà cửa, gia đình, khởi sự hành trình của mình bằng sự lột bỏ (Lc 14,33; 18,22). Vị Thầy đòi, trước hết, là tiếp nhận và vì thế, là sống tính tối thượng của Nước Trời, không gì có thể đặt trên và đặt trước Nước Trời. Vì điều này mà những người nghèo trong tinh thần được gọi là những người có phúc (Mt 5,3), vì họ là những người đầu tiên mà nước Trời hướng tới, tức là những người ở trong tình trạng chờ mong, ao ước và tiếp nhận Nước Trời.
7. Cái nghèo có phúc là cái nghèo có khả năng làm cho con người được tự do tự bên trong, làm cho người ấy lớn lên trong đức tin và đức ái, thứ đức ái luôn mở đôi mắt trên những nhu cầu của người khác, và mở con tim thương xót để cứu giúp họ. Cái nghèo có phúc là cái nghèo được sinh động bởi tình yêu vốn đặt người khác lên trước bản thân mình, và đặt sự tín thác vào Thiên Chúa, Đấng mỗi ngày dự liệu cho các thọ tạo của Ngài, như cho các bông huệ ngoài đồng và cho chim trên trời (x. Mt 6, 25-34).
Cái nghèo có phúc là cái nghèo mà Đức Giêsu khuyên nhủ người thanh niên nhưng anh ta lại buồn sầu bỏ đi vì anh có nhiều của cải (Mc 10,22) và muốn giữ chúng lại cho mình. Vị Thầy đã gợi ý cho anh bán tất cả để giáo dục anh về sự tự do nội tâm và về lòng thương xót chân chính và quảng đại. Sự nghèo khó giáo dục tới đức bác ái, và nhờ điều này mà dẫn tới sự chiêm ngắm Mầu nhiệm Thiên Chúa.
8. Một chứng từ của đời sống thánh hiến đó là đảm nhận lối sống nghèo. Đức thánh cha Phanxicô, trong thông điệp Laudato si’ về sự chăm sóc ngôi nhà chung, đã ca ngợi sự chừng mực: “Linh đạo Kitô giáo đề ra một sự tăng trưởng trong sự chừng mực và một khả năng vui hưởng cái ít. Và một sự trở về với sự giản dị vốn cho phép chúng ta dừng lại để thưởng nếm những sự vật nhỏ bé, để cảm tạ về những cái mà cuộc sống ban tặng mà không bị trói buộc vào cái mà mình có, cũng như không buồn vì cái mình không sở hữu »15. Những người thánh hiến với chọn lựa sống nghèo của mình, một sự nghèo khó được tuyên ra với lời khấn hay ràng buộc thánh, tùy theo đặc sủng riêng của họ, họ là những chứng nhân sống động và khả tín rằng “sự chừng mực, được sống với sự sự do và ý thức, có sức giải phóng. Đó không phải là sống ít đi, không là sống bớt mạnh mẽ, nhưng hoàn toàn ngược lại»16.
Sự nghèo khó của người thánh hiến nhắm «làm chứng rằng Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của cõi lòng con người»17, nhằm tuyên xưng rằng cùng với Đức Kitô họ sở hữu những của cải tốt đẹp hơn và lâu bền hơn (Dt 10,34): đức tin vào Ngài đem lại cho cuộc sống “một nền tảng mới, nơi con người cậy dựa»18.
Với sự nghèo khó của mình, người thánh hiến làm chứng về một phẩm chất của cuộc sống thật sự nhân bản, là cuộc sống tương đối hóa của cải bằng việc cho thấy Thiên Chúa như là thiện hảo tuyệt đối.19 Sự giản dị, sự chừng mực và cuộc sống khổ hạnh của những người thánh hiến đem lại cho họ sự tự do tròn đầy trong Thiên Chúa.20
Hướng tới “xác thịt của Chúa Kitô”
9. «Con người, nhất là những người nghèo, chính là hành trình của Giáo Hội, bởi vì đó đã là hành trình của Chúa Giêsu Kitô»21. Người nghèo đã luôn ở trung tâm sự chú ý của Chúa Giêsu, Đấng đã tìm đem lại cho họ phẩm giá, sự sống, khả thể sống nhân tính tròn đầy. Đức thánh cha Phanxicô trong huấn quyền của ngài, luôn nhắc về điều đó. «Tôi ước ao về một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo»22: những lời này đã được công bố sau khi ngài được bầu cho thấy một trong những quan tâm chính của triều giáo hoàng của ngài. «Đối với Giáo Hội, việc chọn người nghèo là một chọn lựa mang tính thần học hơn là chọn lựa mang tính văn hóa, xã hội học, chính trị hay triết lý. Chính Thiên Chúa đã ban cho họ “lòng thương xót đầu tiên của Ngài”. Sự ưu ái này của Thiên Chúa kéo theo những hệ luận trong đời sống đức tin của mọi tín hữu, họ được kêu gọi để có chính những tâm tình của Chúa Giêsu (Fil 2,5)»23 .
10. Sự đòi hỏi phải chú tâm tới nhu cầu của người nghèo này, dõi theo bước chân của Thầy, đã được nhập thể nơi cộng đoàn môn đệ đầu tiên. Trong Công vụ các Tông đồ (cf. Cv 2,42-47; 4,32-37) Hội thánh tại Gierusalem được trình bày như một cộng đồng trong đó đức ái và sự chia sẻ của cải, được phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Cv 4,35), tới độ không có ai thiếu thốn (Cv 4,34). Giữa các bền tâm thực hiện của cộng đoàn này, ngoài sự chuyên cần trong việc nghe giáo huấn của các Tông đồ, trong việc bẻ bánh và trong cầu nguyện, có cả việc koinonia hiệp thông (Cv 2,42), trong sự đặt tất cả làm của chung (At 2,44; 4,32) và trong sự chia sẻ của cải tùy theo nhu cầu của mỗi người (At 2,45).
Cả cuộc lạc quyên lớn ở Gierusalem do Phaolo tổ chức tại các Giáo Hội mà ngài đã thành lập nhằm hỗ trợ cho Giáo Hội mẹ tại Gierusalem (1 Cor 16,1-4; Rm 15,25-28; 2 Cr 8-9), cũng là một cử chỉ liên đới làm mở rộng chân trời sự hiệp thông Hội thánh.
Những đoạn văn này tạo nên một hình mẫu cảm hứng về hiện hữu và hành động cho các cộng đoàn môn đệ của mọi thời và mọi nơi. Các Kitô hữu đã cho thấy và còn cho thấy trách nhiệm tìm ra những hình thức phù hợp để chuyển thành thực tiễn những đòi hỏi của koinonia. Các người thánh hiến, bằng việc làm cho sự nghèo khó của Chúa Kitô nhập thể vào trong lịch sử và cảm hứng từ cuộc sống của các cộng đoàn tiên khởi, họ được gọi để làm cho sự khẩn cấp của koinonia trở thành của mình. Và sự chọn bước theo Chúa Kitô nghèo khó dẫn đưa họ tới chọn người nghèo.
11. «Một Giáo Hội nghèo vì người nghèo bắt đầu bằng việc đi về phía xác thịt của Chúa Kitô»24. Sự chiêm ngắm dung mạo của Chúa Cha mạc khải nơi Đức Kitô Giêsu, sự cụ thể của tình yêu Ngài được biểu lộ nơi sự Nhập thể của Chúa Con (cf. FU 2,7), đưa tới việc khám phá Ngài trong mọi người nghèo và người bị loại trừ. Với người nghèo, người ta không chỉ trao ban các đồ vật, mà cần phải chia sẻ với họ, hay, còn hơn nữa, trả lại cho họ những cái thuộc về họ. Các người thánh hiến nam nữ, đã có kinh nghiệm về Tình Yêu ban không của Chúa Cha, họ được kêu gọi để làm cho linh đạo của sự trả lại thành của mình, trả lại cách tự do những gì họ đã được ban cho, để phục vụ anh chị em: sự sống, các tặng ân, thời gian, của cải mà họ cần. Cần phải thực hiện “một cuộc gặp gỡ đích thực với những người nghèo và tạo nơi chốn cho sự chia sẻ sao cho trở thành một lối sống”: 25 sống sine proprio – không có gì là của riêng – như gương của thánh Phanxicô Assisi – trở thành một mức độ cao của sự nghèo khó Tin Mừng.
Các người thánh hiến được kêu gọi không chỉ sống nghèo khó cá nhân – “sự nghèo khó, hôm nay, là một tiếng kêu gào. Tất cả chúng ta phải suy nghĩ xem chúng ta có thể nghèo đi một chút không”.26 -, nhưng còn là một sự nghèo khó cộng đoàn nữa; không chỉ các thành viên phải thoát ly khỏi của cải mà cả chính các cơ sở: «Các tu viện trống rỗng không phải là của chúng ta, chúng là dành cho xác thịt của Chúa Kitô»27. Vì thế, cộng đoàn tu sĩ phải liên đới trong sự nghèo khó, bởi vì «bất cứ cộng đoàn nào của Giáo Hội, trong mức độ tìm cách để được bình lặng không bận tâm cách sáng tạo mà cộng tác cách đắc lực để cho người nghèo được sống có phẩm giá và bao quát mọi người, cộng đoàn ấy cũng có nguy cơ bị tan rã»28.
Cộng đoàn được mời gọi để phân định không phải để xem ai là người nghèo, cho bằng xem mình phải làm gì để gần bên người nghèo, dù họ là ai và dù gặp họ ở bất cứ nơi đâu, để nhận ra sự nghèo khó có khả năng giúp cộng đoàn nên giàu có trong chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa Kitô (x. Ep 3,18-19).
Kinh tế mang khuôn mặt nhân bản
12. Con người và sự thiện đích thực của nó phải có chỗ tối thượng của nó ngay cả trong hoạt động kinh tế cũng như, nói rộng hơn, trong việc tổ chức xã hội và đời sống chính trị. Hiến chế Gaudium et spes nhắc nhở: “Con người là tác giả, là trung tâm và là mục đích của toàn thể đời sống kinh tế-xã hội»29, và Đức Benedicto XVI cũng tuyên bố «Cái vốn đầu tiên phải được gìn giữ và trân trọng đó là con người, nhân vị, trong tính toàn vẹn của nó»30.
Vì thế, chiều kích kinh tế thì nối kết chặt chẽ với con người và sứ mệnh. Qua kinh tế mà những chọn lựa quan trọng liên quan đến đời sống cá nhân và tập thể được thông qua, trong đó phải phản chiếu chứng tá Tin mừng, chú tâm tới các nhu cầu của anh chị em.
Những người nam nữ thánh hiến chọn tính cách ngôn sứ và từ chối «sự độc tài của nền kinh tế không có khuôn mặt và không có mục đích thật sự nhân bản»31. Sự nghèo khó của họ nhắc nhớ cho tất cả mọi người sự khẩn thiết phải giải phóng mình khỏi thứ kinh tế mang tính loại trừ và bất công, bởi vì loại kinh tế như thế đem đến chết chóc32. Thật vậy loại kinh tế như vậy dẫn đến chỗ coi «hữu thể nhân linh nơi chính nó giống như một của cải để tiêu thụ, sử dụng rồi vứt bỏ. Chúng ta đã khởi sự nên một nền văn hóa “xài bỏ”, thậm chí còn cổ võ nó. [...] Những người bị loại trừ không chỉ bị “bóc lột” mà còn bị từ khước, thành “đồ thừa”»33.
Sự khả tín Tin mừng của những người thánh hiến gắn liền với cách thức trong đó tài sản được điều hành. Không thể để mình nhượng bộ cám dỗ tìm kiếm tính hiệu quả mang tính kỹ thuật và tổ chức của các nguồn lực vật chất và công cuộc, nhưng là hiệu quả của hoạt động trên bình diện Tin mừng. Theo nhãn quan này, các Bề trên cấp cao phải ý thức rằng không phải mọi kỹ thuật điều hành quản trị đều tương hợp với các nguyên tắc của Tin Mừng và hợp với giáo huấn xã hội của Giáo Hội.34 «Không bao giờ kinh tế và sự điều hành quản trị nó có tính trung lập xét về đạo đức và nhân học. Hoặc là cần phải xây dựng các mối tương quan công bằng và liên đới, hoặc sản sinh ra tình trạng loại trừ và từ khước»35.
13. Sự quan tâm đặt nhân vị, với tất cả những đặc tính riêng của nó, vào trung tâm này, đòi hỏi phải liên lỉ vượt qua não trạng duy chức năng hoạt động ngay cả trong nội bộ cộng đoàn. Đặc biệt với sự chăm sóc cẩn thận và trân trọng tất cả mọi thành viên, nhất là những người già. Đó chính là vấn đề cụ thể hội nhập những người cao tuổi vào trong năng động tính cộng đoàn, nhờ tới tiềm lực chứng tá và lời cầu nguyện của họ, trân trọng kinh nghiệm và sự khôn ngoan của họ, và đưa họ, kể cả trong giai đoạn tuổi tác này, vào trong những cách thức mà họ còn có thể phục vụ. Sự hội nhập trở nên một dấu chỉ đối kháng trong một xã hội nơi mà những người cao tuổi có nguy cơ bị đặt qua một bên như đồ phế bỏ. Chúng ta biết quá rõ rằng cái năng động của sự tiếp đón và trân trọng này phải luôn hiện diện trong tình huynh đệ của chúng ta: các Tu Hội nỗ lực cụ thể để bảo đảm – với một sự đầu tư đáng kể năng lực và tài sản – cho các tu sĩ cao tuổi và đau ốm có được sự trợ giúp xứng đáng. Cũng vây, các người thánh hiến đã cao tuổi được mời gọi để đón nhận với sự mở rộng và tín nhiệm những đề xuất của các tu sĩ trẻ hơn, sao cho mỗi cộng đoàn có thể thực hiện được lời ngôn sứ Gioel: các bậc lão thành của ngươi sẽ được báo mộng, các người trẻ trung của ngươi sẽ thấy thị kiến (3,1), không bao giờ nhượng bộ cho cám dỗ tìm cách để sống còn.36
Kinh tế là công cụ cho hoạt động truyền giáo của Giáo Hội
14. Suy tư về kinh tế có nghĩa là đưa mình vào trong tiến trình nhân bản hóa, tiến trình vốn làm cho chúng ta thành, như người Latin nói, humanissimi, nghĩa là những con người theo nghĩa tròn đầy nhất của hạn từ, ý thức được chính mình và ý thức được tương quan-sứ mệnh của mình trong thế giới: «Tôi là một sứ mệnh trên mặt đất và vì lý do đó có mặt trong thế giới này».37
Trong buổi Hội nghị đầu tiên dành cho các Tổng quản lý các Dòng, đức thánh cha đã nhắc nhở «Các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ đã luôn là tiếng nói ngôn sứ và chứng từ sống động cho sự mới mẻ là chính Chúa Kitô [...] Sự nghèo khó mang tình yêu thương này đó là sự liên đới, sự chia sẻ và bác ái, và nó được biểu lộ trong sự chừng mực, trong sự tìm kiếm sự công bằng và niềm vui với cái cốt yếu, để canh chừng khỏi các ngẫu tượng vật chất vốn làm lu mờ ý nghĩa chân chính của cuộc sống»38.
Vì thế, sự khó nghèo của người thánh hiến phải đượm đầy tình yêu thương chứ không mang tính lý thuyết.39 Nó mạnh mẽ phản kháng sự thờ ngẫu tượng tiền bạc, đặt mình như là lời ngôn sứ kêu gọi xã hội, vốn ở nhiều nơi trên thế giới, đang có nguy cơ đánh mất cảm thức về đo lường sự vật và đánh mất chính ý nghĩa của các sự vật. Vì lý do này, ngày nay hơn bất cứ thời đại nào khác, tiếng kêu gọi của nó được chú ý ngay cả giữa những người, vốn ý thức được sự giới hạn của nguồn liệu của hành tinh, đang kêu cứu phải kính trọng và cứu vãn thọ tạo qua việc giảm bớt tiêu thụ, sống chừng mực, đặt ra một sự kiềm chế bắt buộc đối với những ham muốn của mình.
Nếu lãnh vực kinh tế là dụng cụ, nếu tiền bạc phải phục vụ chứ không phải cai trị, thì các chọn lựa kinh tế mà các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ thực hiện cần phải nhìn vào đặc sủng, vào sự hướng dẫn, vào mục đích, vào ý nghĩa và vào những hệ lụy xã hội và giáo hội của các chọn lựa kinh tế. 40
15. Sự xác quyết về tính công cụ của các tài sản vật chất so với sự hiện thực các mục đích xuất phát từ chính ý niệm về tài sản của giáo hội. Thật vậy, các tài sản của các Tu Hội là tài sản của Giáo hội (can. 634 § 1). Các tài sản của pháp nhân công được coi là tài sản của Giáo Hội (can. 1257 § 1) được nhằm cho mục tiêu đáp ứng sứ mệnh của Giáo Hội (can. 114 § 1), «để thực hiện nhiệm vụ riêng đã được ủy thác vì thiện ích chung, nhân danh Giáo Hội» (can. 116 § 1). Thật vậy, các tài sản của các Tu Hội tham dự vào «chính những mục tiêu của Giáo Hội theo một cách thức Tin mừng để thăng tiến con người, sứ mệnh, chia sẻ bác ái và liên đới với dân Thiên Chúa: đặc biệt khi sự quan tâm và chăm sóc người nghèo được sống như một dấn thân chung, điều đó sẽ đem lại sức sống mới cho Tu Hội»41. Như Hiến chế công đồng Gaudium et spes khẳng định, Giáo Hội cần đến «những sự vật vật chất trong mức độ mà sứ mệnh đòi hỏi», còn hơn nữa Giáo Hội «sẽ từ bỏ thực thi các quyền đã đạt được cách hợp pháp ấy nếu như thấy rõ là việc sử dụng chúng sẽ khiến gây nên nghi ngờ cho tính chứng tá chân chính của mình»42.
Vì thế, sự trung thành với đặc sủng và sứ mệnh luôn là tiêu chuẩn nền tảng để đánh giá các công cuộc43, thật vậy «lợi tức không thể là tiêu chuẩn duy nhất phải lưu tâm»44.
Sự tái suy tư về kinh tế phải được thực hiện qua một sự phân định chú tâm: bằng lắng nghe Lời Chúa và lắng nghe lịch sử. Sự để tâm không mệt mỏi trong sự phân định sẽ cho phép, với một sự tinh tế sáng tạo và một con tim sẵn sàng, chọn lựa những công cuộc cống hiến phẩm giá mới cho “những người là nạn nhân của sự thải bỏ, yếu đuối và mỏng dòn: trẻ mới sinh, người nghèo khổ, người già bệnh, người thiểu năng trầm trọng».45 Trong lá thư gởi cho tất cả các người thánh hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến, Đức thánh cha Phanxicô khẳng định rằng: «Cha mong đợi từ các con những cử chỉ cụ thể về sự tiếp đón những người tỵ nạn, về sự gần gũi những người nghèo, về sự sáng tạo trong dạy giáo lý, trong sự loan báo Tin mừng, trong sự dẫn người ta vào đời cầu nguyện. Bởi thế, cha ước mong có một sự gọn nhẹ trong cơ cấu, sự tái sử dụng những ngôi nhà to lớn để dùng vào những đáp ứng cho những nhu cầu hiện tại của việc rao giảng tin mừng và bác ái, sự thích ứng công cuộc cho những nhu cầu mới»46.
Đồng thời cũng cần phải có một sự ý thức được canh tân để vượt qua não trạng bảo bọc, bao trả hết những thâm hụt mất mát mà không giải quyết những vấn đề về điều hành quản trị và cho thấy một thiệt hại lớn bởi vì làm thất tán nguồn lực vốn có thể được sử dụng trong những công cuộc bác ái khác.47
Các Tu Hội phải quan tâm không chỉ đến những kết quả của sự điều hành quản trị, nhưng còn cả toàn bộ iter – đường đi của diễn trình kinh tế. «Học thuyết xã hội của Giáo Hội đã luôn chủ trương rằng công lý liên quan đến toàn bộ các giai đoạn của hoạt động kinh tế, như thế mọi quyết định về kinh tế đều có một hậu quả mang tính luân lý. Vì lý do đó, các khoản giáo luật liên quan đến công bằng phải luôn được kính trọng ngay từ đầu, trong khi thực hiện tiến trình kinh tế, chứ không phải là để sau hay coi là thứ yếu»48.
Kinh tế có tính Tin mừng về chia sẻ và hiệp thông
16. Các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ được mời gọi tìm ra «cách thức mới để hiểu về kinh tế và sự phát triển»49. Tình huynh đệ, sự liên đới và từ khước thái độ dửng dưng, sự nhưng không, là thuốc chữa căn bản hơn cho các xung khắc, kể cả về kinh tế, và là khởi điểm để xây dựng một xã hội đúng đắn và công bằng hơn, hướng tới phản ánh bao có thể quê hương đích thực, nơi sẽ có trời mới và đất mới nơi công lý ngự trị (2 Pr 3,13).
«Nếu như việc theo đuổi sự phát triển đòi hỏi ngày càng nhiều về kỹ thuật, thì càng đòi hỏi nhiều hơn nữa phải có những con người có khả năng suy tư sâu xa, hướng tới việc tìm kiếm một nền nhân bản mới, vốn cho phép con người hiện đại tìm lại được chính mình, đảm nhận những giá trị cao cả về tình yêu, tình bạn, kinh nguyện và chiêm niệm. Nhờ đó mà có thể hoàn thành đầy đủ một sự phát triển đích thực»50.
Vì thế, sự phát triển – nếu muốn mang tính nhân bản chân chính - nó phải tạo không gian cho các đặc sủng.
Thực vậy, các đặc sủng sáng lập được đặt đúng theo danh hiệu, trong cái «logic của ơn riêng thì không loại bỏ công lý và cũng không đứng sau công lý và cũng không phải đến từ bên ngoài»51; những người thánh hiến, trong hiện hữu-tặng ân, đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội và chính trị; sự phát triển này “nếu muốn mang tính nhân bản chân chính”, phải «tạo không gian để cho nguyên lý của tính nhưng không trở thành diễn tả của tình huynh đệ [...]. Tặng ân, do chính bản tính của nó, thì vượt ra khỏi công trạng, qui luật của nó là vượt ra khỏi»52. Sự vượt ra khỏi thì thoát khỏi mọi các hình mẫu công ty: nó là sự đo lường theo đức ái! «Thực vậy, các ơn đặc sủng, khiến cho người tín hữu đáp lại tặng ân cứu độ, trong sự tự do tròn đầy và với hình thức thích hợp theo thời đại, bằng việc làm cho chính mình thành một quà tặng tình yêu cho người khác và trở nên chứng tá chân chính của Tin mừng trước mặt mọi người»53. Thật vậy «trong logic của Tin Mừng, nếu không trao tặng hết, thì người ta sẽ chẳng bao giờ trao tặng đủ»54.
17. Đời sống thánh hiến phải giải thoát mình khỏi cái mẫu thức tôn phong kỹ thuật bằng cách thực thi tròn đầy sự tự do, tức là «có khả năng giới hạn kỹ thuật, định hướng cho kỹ thuật, khiến cho kỹ thuật phục vụ cho một loại tiến bộ khác, lành mạnh hơn, nhân bản hơn, có tính xã hội và toàn diện hơn»55.
Và mọi người, cá nhân cũng như cộng đoàn, đều phải làm cuộc hoán cải có tính môi sinh: «Các vấn đề xã hội được giải đáp với mạng lưới cộng đồng, chứ không chỉ bằng việc gom các của cải cá nhân lại. [...] Sự hoán cải môi sinh đòi phải lập nên một năng động tính về sự thay đổi lâu dài, đó là một sự hoán cải có tính cộng đồng»56. Trong tình huynh đệ của đời thánh hiến, chúng ta được mời gọi để làm cho lời mời gọi này thành của mình, và làm cho sự mới mẻ của cuộc sống chứa đựng trong đặc sủng của chúng ta thành tác động. Ngày hôm nay bằng việc làm triển nở những khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người, chúng ta được mời gọi để gia tăng sự sáng tạo và nhiệt tình, để giải quyết cho những thảm kịch của thế giới, bằng việc hiến mình như của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa (Rm 12,1)57.
Đào tạo về chiều kích kinh tế
18. Trong nhãn quan của một sự hoán cải não trạng và hoán cải thực hành kinh tế và điều hành quản trị «việc tái suy tư về kinh tế đòi phải có những năng lực và khả năng đặc biệt, [...] là một năng động liên quan đến cuộc sống của tất cả và của từng người. Đó là một nhiệm vụ không có thể ủy lại cho ai khác, nhưng đòi hỏi một trách nhiệm tròn đầy của từng người».58
Tất cả mọi thành viên của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ phải cảm thấy có trách nhiệm với sự chú tâm cao nhất để cho sự quản lý các nguồn lực kinh tế luôn phục vụ cách thực sự cho các mục tiêu rõ ràng theo đặc sủng riêng.
Sự phức tạp ngày càng tăng của việc quản lý tài sản đã đưa tới khuynh hướng rời bỏ trách nhiệm hay sự cam chịu hay muốn ủy những vấn đề này cho một số người, có khi thậm chí ủy thác cho một người duy nhất; điều ấy đã gây nên sự thiếu quan tâm đến vấn đề kinh tế trong nội bộ cộng đoàn; đã làm gia tăng sự mất tiếp chạm với giá cả của cuộc sống cũng như nỗi vất vả của sự điều hành quản trị và đã dẫn tới nguy cơ phân rẽ lưỡng cực giữa kinh tế và sứ mệnh.59
Sự đào tạo về chiều kích kinh tế khởi đi từ sự chia sẻ những động lực nhân bản, đạo đức luân lý của việc phục vụ, để đạt tới sự tái khám phá chiều kích Tin mừng của kinh tế, để điều hành quản trị các cơ cấu kinh tế theo trật tự của các nguyên lý của tính nhưng không, tình huynh đệ và công lý, để sống theo logic của tặng ân. Đó là một đóng góp đích thực cho sự phát triển về mặt kinh tế, xã hội và chính trị của xã hội cũng như của chính Giáo Hội.60
19. Việc đào tạo giúp «đi vào trong tiến trình quan trọng của phân định, thanh luyện và canh tân»61 trong cái cụ thể của từng mỗi cảnh huống. Khởi sự tiến trình đào tạo về chiều kích kinh tế có nghĩa là đồng hành sự thay đổi, khởi động sự cần thiết phải hướng tới Chúa Giêsu, kể cả trong trật tự kinh tế, để trở nên «chứng nhân về một cách thức làm, hành động và sống khác»62. Vì mục đích ấy, cần phải có sự chuẩn bị tương xứng theo hướng dẫn của học thuyết xã hội của Giáo Hội. Thật vậy, “khi đặt mình hoàn toàn để phục vụ mầu nhiệm đức ái của Chúa Kitô cho con người và cho thế giới, các tu sĩ tiên báo và chứng tỏ bằng đời sống của mình những nét của một nhân loại mới mà Học thuyết xã hội này muốn cổ võ».63
Đức thánh cha Phanxicô trong thông điệp Laudato si’ đã khuyên phải làm sao trong các chủng viện và các nhà đào luyện tu sĩ “có sự đào luyện tới một sự khổ hạnh có trách nhiệm, tới một sự chiêm ngắm thế giới với lòng biết ơn, tới sự chăm sóc đối với sự mỏng manh của những người nghèo và chăm sóc sự mỏng manh môi sinh»64.
Điều này bao hàm việc sống một linh đạo nhập thể, vốn coi thực tại như nơi biểu lộ và như nơi gặp gỡ Thiên Chúa, phát triển một thái độ chiêm niệm có khả năng lắng nghe tiếng của Ngài trong cuộc sống cụ thể, để khám phá ra dung mạo của Ngài nơi mỗi con người, đặc biệt nơi những người không được ưu đãi. Một linh đạo không chấp nhận sự phân cực hay chủ trương giảm lược65; lịch sử, cuộc sống hằng ngày, đó là khoảng không gian thánh trong đó Ngôi Lời mạc khải, chất vấn và biến đổi thực tại.
Tiến trình đào luyện, bằng việc đề ra linh đạo nhập thể, giáo dục để giúp nhìn thấy thực tại từ góc độ của người nghèo, để tăng triển một sự chạnh thương thiết thực đối với họ, mang lấy nỗi đau của họ, và dấn thân để cổ võ công lý, hòa bình và sự toàn vẹn của thọ tạo.
Việc đào luyện về chiều kích kinh tế, hợp theo đường nét của đặc sủng riêng, là căn bản để cho các chọn lựa trong sứ mệnh có thể mang tính khởi sắc và ngôn sứ.
Sự khẩn thiết phải hướng tới tính ngôn sứ
20. Đức thánh cha Phanxicô trong Tông thư gởi các người thánh hiến đã khẳng dịnh rằng «Người ngôn sứ lãnh nhận từ Thiên Chúa khả năng để dò xét lịch sử mà ông sống trong đó và đưa ra lời giải thích về các biến cố: người ấy giống như người canh đêm, biết được khi nào hừng đông sẽ tới (cf. Is 21,11-12) »66. Từ đó phát xuất ra trách nhiệm cụ thể đứng trước môi trường xã hội và kinh tế của chúng ta. «Trong cái bất trắc hiện nay, trong một xã hội có khả năng chuyển dịch những phương tiện to lớn, nhưng sự suy tư của xã hội ấy trên bình diện văn hóa và luân lý lại không tương xứng so với sự sử dụng để theo đuổi mục đích thích đáng», các người thánh hiến phải cảm thấy sự khẩn thiết phải hướng tới tính ngôn sứ, vốn mời gọi chúng ta “không đầu hàng và mời gọi xây dựng một tương lai có ý nghĩa cho các thế hệ sẽ đến. Không được ngần ngại đề ra những điều mới». Thật vậy, «nhờ vào sự dấn mình trong tính cách cộng đoàn để cùng nghĩ, người ta có thể thay đổi không chỉ các định chế mà cả lối sống, và khơi lên một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi dân nước»67.
21. Một số Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ đã bắt đầu có những sáng kiến, trong phạm vi liên quan khía cạnh luật pháp, và có thể sẽ thật hữu ích khi dùng chúng để suy tư. Những người lao tác sáng tạo của đức ái và, cũng đồng thời, là những người tìm tòi để vạch ra những cách lên kế hoạch mới được bảo đảm bởi những quy tắc pháp lý. Trong bối cảnh của sự tháp nhập, đó là vấn đề khởi động giữa các Tu Hội và Tu Đoàn một sự trao đổi để nghiên cứu, với sự hỗ trợ của các chuyên viên, đâu là khung cảnh pháp lý có thể giúp giữ gìn tốt hơn và làm cho sự phục vụ của họ có hiệu quả hơn.
Người ta nhận thấy ngày nay có một sự thay đổi mau chóng về luật, khiến đưa tới sự không chắc chắn và ảnh hưởng không tránh khỏi trên tình cảnh kinh tế đã yếu kém sẵn của một số công cuộc. Vấn đề là tăng cường mối liên kết với những trung tâm – kể cả trung tâm học vấn – để bảo đảm sự canh chừng theo pháp lý và dự liệu những hệ quả và tác động theo hạn kỳ lâu dài-trung bình trên những hoạt động được điều hành bởi các Tu Hội. Hơn nữa, cũng đáng ao ước việc họ coi trọng những tiến trình cộng tác với các cơ quan liên hệ của các Hội Đồng Giám Mục, vốn điều phối các lãnh vực phục vụ (các công cuộc giáo dục, hoạt động y tế, y tế-xã hội và trợ giúp-xã hội). Theo đường hướng này, sự kích hoạt việc trao đổi thường xuyên sẽ giúp cho có sự nhất trí để lập ra một khung đường hướng chung, kể cả đứng trước thẩm quyền dân sự.
II- CÁI NHÌN CỦA THIÊN CHÚA: ĐẶC SỦNG VÀ SỨ MỆNH
Hướng tới Vương quốc tương lai
22. Sự hướng về cánh chung tạo nên phẩm chất cho đời sống thánh hiến và, đồng thời tiêu biểu cho tính năng động của nó, cái năng động được diễn tả trong lời khẩn nguyện: «Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! (Ap 22,20). Sự chờ đợi này hoàn toàn khác với tính bất động: dẫu hướng về Vương quốc tương lai, sự mong đợi chuyển hóa thành việc làm và sứ mệnh [...] để cho Vương quốc được triển nở ngay tại đây bây giờ. [...] Đời sống thánh hiến chính là để phục vụ cho sự tỏa chiếu vinh quang thần linh chung cuộc này, khi mà mọi xác thịt sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa».68 Và lời khẩn nguyện Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!, luôn luôn gắn liền với lời cầu xin: để Nước Cha trị đến (Mt 6, 10)69. Hiện tại và vĩnh hằng không phải là cái này đến sau cái kia nhưng nối kết chặt chẽ với nhau, đức tin «dẫn tới tương lai bên trong cái hiện tại, bởi thế, tương lai không còn là cái thuần túy “chưa-có” nữa. Chính sự thể là tương lai hiện hữu, điều đó làm thay đổi hiện tại; hiện tại được chạm tới bởi thực tại tương lai, và như thế những sự tương lai đổ vào trong những sự hiện tại, và cái hiện tại đi vào trong cái tương lai»70.
Bởi thế, tương quan giữa đặc sủng và tầm nhìn tương lai thì mang tính chất thiết lập cho chính sứ mệnh của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ,71 vì họ được mời gọi sống đặc sủng riêng của mình trong «sự mong chờ những sự tương lai khởi đi từ một hiện tại đã được ban tặng»72. Xây dựng một tầm nhìn tương lai, ngay cả trong những hoạt động điều hành quản trị các công cuộc, là trách nhiệm của mỗi Tu Hội, một nhiệm vụ suy tư của người tin nhằm xác quyết về sự hiện diện của Vương quốc đang có ở đây và bây giờ; đó là một tiến trình phân định mang tính Giáo Hội mà các công cuộc là nơi chốn trung gian.
23. Vì thế, không được đồng hóa công cuộc với sứ mệnh: các công cuộc tạo nên cách thức trong đó sứ mệnh trở thành hữu hình, các công cuộc luôn giả định phải có sứ mệnh, nhưng chúng không thể hiện hết được sứ mệnh, cũng không định nghĩa nên sứ mệnh. Khi điều này xảy ra –như trong quá khứ có thể đã xảy ra -, kết quả nghịch lý đó là không cống hiến tương lai cho các công cuộc. Các công cuộc có thể thay đổi trong khi sứ mệnh thì luôn trung thành với trực giác đặc sủng khởi đầu, bằng việc nhập thể vào thực tại hôm nay; sứ mệnh phải được hội nhập với hành trình của dân Thiên Chúa trong lịch sử73 và người nào hoạt động vì một sứ mệnh của Giáo Hội, người ấy phải thực hiện nó trong sự chú tâm tới tiếng nói của Thánh Thần. Thỏa đáng những điều kiện này người ta lấy lại khả năng mở vào tương lai cho đặc sủng và các công cuộc diễn tả đặc sủng. Khác đi, ngay cả những công cuộc có tính mới mẻ đều rơi vào nguy cơ đưa ra những đáp ứng tức thời, dù không nghi ngờ gì về hiệu quả của chúng, nhưng chúng không mở ra cho tính ngôn sứ, và cuối cùng, cũng chẳng có tính Tin mừng.
Thật vậy, sứ mệnh, được cấu thành bất khả phân bởi sự Sequela Christi – theo Chúa Kitô và việc phục vụ những người nhỏ bé và người nghèo. Sứ mệnh sinh ra bởi một kinh nghiệm đặc thù về Thánh Thần, tái hiện trong Giáo Hội một khía cạnh của mầu nhiệm Chúa Kitô và đào sâu kinh nghiệm này, một sứ mệnh chân chính luôn phải giữ gìn chiều kích thần nhiệm. Nếu giữa sứ mệnh đặc sủng và các công cuộc xảy ra một sự tách rời, các công cuộc sẽ mang hình ảnh của tính cách chuyên nghiệp, của khả năng, nhưng không có sự sống, không có tình yêu, không có chiều sâu.
Về điểm này lời của đức thánh cha Phanxicô mang một tầm nhìn xa; thôi thúc sự hiểu sâu về chứng tá cá nhân và tập thể về đặc sủng được hiểu như là phóng tầm nhìn ra xa, cùng thấy và đọc được những gì xảy ra, với cái nhìn của Thiên Chúa: «Chỉ trong cái nhìn của Thiên Chúa mới có tương lai cho chúng ta. Chúng ta cần đến người, nhờ hiểu được sự rộng lớn của thuở ruộng của Thiên Chúa hơn là mảnh vườn nhỏ của mình, người ấy mới bảo đảm cho chúng ta rằng điều mà trái tim chúng ta khao khát không phải là một sự hứa hẹn hão huyền»74.
Nhìn vượt xa: sự phân định
24. Sự đối chiếu đặc sủng với lịch sử giúp luyện tập cho sự phân định, làm cho có khả năng nhìn với cái nhìn của Thiên Chúa, đó là một ân ban giúp cho biết nhìn với đôi mắt khác, có khả năng thấy được những điều mà người khác không thấy. Các đặc sủng cho phép nhìn thấy khả năng nơi mà những người khác chỉ nhận thấy sự không còn tương ứng.
Sự phân định là đem ra thực hành cái khả năng nhận biết tầm vóc lớn lao của thuở ruộng của Thiên Chúa, tránh sao cho những sự nhỏ nhặt – như lời Đức thánh cha Phanxicô nói cái mảnh vườn nhỏ - trở thành cái tuyệt đối, còn cái lớn lao lại bị trở thành cái tương đối hay thậm chí không tồn tại nữa. Vì thế, cái nhìn đó chuyển thành một nhận thức nào đó về lịch sử, biết nối kết các câu hỏi xuất hiện từ kinh nghiệm con người về kinh tế và điều hành vào bên trong câu hỏi nền tảng hơn của đức tin. Ở điểm này, đáng ghi khắc lời khẳng định của tông huấn Niềm vui Tin Mừng: «Chúng ta hãy nhớ rằng không cần phải trả lời cho những câu hỏi mà chẳng ai đặt ra»75.
Hơn nữa, còn phải lưu tâm đến đòi hỏi sao cho «các tập tục, phong cách, giờ giấc, ngôn từ và mọi cơ cấu của Giáo Hội trở thành một kênh chuyển tải xứng hợp để Tin mừng hóa thế giới đương thời, hơn là để tự bảo tồn»76. Tiêu chuẩn không thể tránh né ngay cả trong cách thức quản lý và điều hành quản trị các tài sản của Tu Hội mà đôi khi xem chừng định hình cố định cho những thứ chủ nghĩa cá nhân về vai trò và những nhãn quan liên hệ và không mở ra cho sự khắc phục những thực hành kém hiệu năng và những định hướng lỗi thời.
25. Cái nhìn vượt xa đòi phải làm rõ một dự định, nghĩa là một kinh nghiệm thiêng liêng và có tính giáo hội mà sẽ mang lấy hình thái từng bước và chuyển thành cái cụ thể, thành hành động. Đó không phải là một cái nhìn tiên thiên, qui về những ý tưởng và khái niệm, nhưng là một kinh nghiệm sống qui chiếu đến thời gian, nơi chốn và con người (như thánh Ignatio Loyola đòi hỏi), bởi thế nó không đưa tới sự trừu tượng hóa mang tính ý thức hệ. Do đó, nó là một nhãn quan về tương lai, không nhằm áp đặt trên lịch sử bằng việc tìm cách tổ chức theo như sở thích sắp xếp, nhưng là đối thoại với thực tại, là đi vào trong lịch sử của những con người, được thực hiện trong thời gian. Đó là con đường để bước vào, là hành trình mở ra trong khi bước đi.
Đồng thời, tầm nhìn rộng mở có nghĩa là, để cho mình được nhìn lại từ thực tại bao quanh mình, để cho mình được chất vấn bởi thực tại, và nhìn vào mình qua những yêu cầu của thực tại. Điều này cho phép đời sống thánh hiến, trong các chọn lựa của sứ mệnh và điều hành quản trị các công cuộc, đặt cái nhìn của mình vào điều cốt yếu.
Chúa Thánh Thần, nguồn mạch vĩnh hằng của mọi đặc sủng, là sự hiệp thông tình yêu giữa Cha và Con. Sự hiệp thông này thực hiện trong một chuyển động kép của Thánh Thần, ad intra và ad extra, chuyển động vào trong và chuyển động ra ngoài: đó là sự đối thoại và tương quan giữa Cha và Con, là sự hiện diện của Tình yêu của Thiên Chúa trong lịch sử. Sự năng động này trở thành lực đẩy của đời sống thánh hiến: hằng ngày trở về với sự mới mẻ vĩnh hằng của đặc sủng để làm cho nó hiện diện trong lịch sử. Vì thế, sự tương quan với lịch sử trở thành cần thiết cho sức sống của đặc sủng, vốn có hiệu lực và sẽ hiệu lực trong mức độ mà tính tương quan nội tại này được làm cho thành của chính mình. Thế nên, người thánh hiến mang vào trong cái xã hội vốn luôn thay đổi cái Tình yêu không đổi thay.
Lối làm việc có hoạch định
26. Khả năng về tương lai của một đặc sủng thì đối diện với sự mau lẹ và sự toàn cầu hóa của các thay đổi đang diễn ra (xã hội-kinh tế, chính trị, lập pháp). Những thay đổi đó được thấy rõ như rơi vào trong cái phức hợp của các vấn đề phải đối diện, bao gồm cả vấn đề điều hành quản trị. Trong tình cảnh ấy thật khó mà đòi phải có những quyết định tức khắc, để thực tế hơn người ta nói tới việc suy tư cùng nhau về những định hướng có thể mang tính lâu bền trong tương lai gần, miễn là đừng tự hạn hẹp vào mảnh vườn nhỏ bé của chúng ta. Vấn đề không giới hạn vào tính tiếp nối liên tục của các công cuộc thể hiện đặc sủng, nhưng vào ý nghĩa xã hội-giáo hội của chúng, vốn được chuyển thành hiệu quả Tin mừng.
Vì mục đích này thật là khẩn thiết phải có một não trạng hoạch định. Điều này đưa tới việc đảm nhận một phương pháp và những công cụ để dự đoán, vạch định và hướng dẫn sự thay đổi cũng như sự tăng trưởng trong việc thực hiện hằng ngày, để cống hiến cho những con người, các cộng đoàn và các công cuộc, cái khả năng để nhìn vượt xa, để giải thích thế giới và những đòi hỏi thực tế. Vì thế, đó là việc phát triển những chiến thuật và kỹ năng phân tích, để lượng giá tính khả thi thực tế của một hành động, bằng việc tìm kiếm và trân trọng những hiểu biết của Tu Hội về các kế hoạch và công việc đã thực hiện trong quá khứ, nhưng cũng dùng đến những chuyên viên bên ngoài, bằng việc tìm cách biết những phương thức hay của các Tu Hội khác, nối kết các năng lực với các khả năng để làm việc theo mạng lưới. Não trạng hoạch định khởi đi từ kinh nghiệm thiêng liêng và có tính Giáo Hội, để chuyển tầm nhìn về tương lai của Tu Hội thành thực tế, thông qua một kế hoạch làm việc có chiến lược, vốn dùng đến những hành trình cùng được chia sẻ.
27. Còn cần thêm những nỗ lực nữa để cho hành trình đã bắt đầu trong những năm này giúp làm cho chiều kích đặc sủng trong khía cạnh hoạt động và điều hành được trở nên hữu hình. Gần đây nhiều Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ đã có bề dày, họ đã soạn các tài liệu, đến từ thực tế đời sống được sự soi sáng của đặc sủng. Trong các tài liệu ấy, trong ánh sáng của những yếu tố cốt yếu của đặc sủng sáng lập, họ đã đề nghị đọc lại về các tiêu chuẩn theo pháp luật và điều hành quản trị gắn liền với các công cuộc của họ. Những yếu tố mà tạo nên một tầm nhìn hữu cơ định hướng cho các hướng kinh tế, điều hành và tài chính của việc phục vụ. Sự vạch định như thế, như thấy rõ, trình bày thành một số hướng dẫn nền tảng, mang tính giải thích về chính đặc sủng. Để nêu ví dụ, người ta đề cập đến các chỉ số hướng dẫn liên quan đến việc kiểm chứng sự phục vụ bác ái trong việc sống một chứng tá nhất quán với các giá trị đặc sủng của Tu Hội và những chỉ số hướng dẫn gắn liền với sự đánh giá về các mục tiêu và các kết quả được mong đợi. Những tài liệu được đề cập ở trên – thường là hoa trái của sự soạn thảo rất kiên nhẫn và vất vả - có thể được áp dụng bởi các gia đình Hội dòng đời sống thánh hiến khác. Sự chia sẻ kinh nghiệm và hiểu biết là tiền đề hứa hẹn phong phú cho các tiến trình phân định liên quan đến sự tái tổ chức các công cuộc để «bảo vệ cảm thức về đặc sủng riêng»77.
Các đặc sủng: đặc tính mang ý nghĩa Giáo Hội
28. Trong viễn cảnh của một tầm nhìn về tương lai thì ý nghĩa tính trước hết diễn tả về tính chất Giáo Hội của đặc sủng, chiều kích mà đức thánh cha Phanxicô nhấn mạnh rất nhiều: các đặc sủng «là những tặng ân để canh tân và xây dựng Giáo Hội. Đó không phải là một gia sản đóng kín, được trao phó cho một nhóm để giữ gìn; đúng hơn nó là những quà tặng của Thánh Thần được tháp nhập vào trong thân mình Hội thánh [...]. Một dấu chỉ rõ ràng về tính chân chính của một đặc sủng đó là tính chất Giáo Hội của nó, khả năng của nó tháp nhập hài hòa vào trong sự sống của Dân thánh của Thiên Chúa vì lợi ích của tất cả mọi người. [...] Một đặc sủng càng hướng cái nhìn của nó vào tâm điểm của Tin Mừng, thì sự phục vụ của nó càng mang tính Giáo Hội»78.
Có hai khía cạnh đáng được lưu ý ở đây. Các đặc sủng không phải là một gia sản đóng kín; dấu chỉ chân chính của tính chất Giáo Hội của nó là «khả năng tháp nhập hài hòa vào trong sự sống của Dân thánh của Thiên Chúa»79.
Giữ cho các đặc sủng được sống động hiểu ngầm là canh chừng trên đặc tính giáo hội của tặng ân: một đặc sủng được canh tân trong thời gian để có thể đóng góp xây dựng Hội thánh80.
29. «Sứ mệnh của đời sống thánh hiến thì mang tính phổ quát và sứ mệnh của nhiều Tu Hội trải rộng khắp thế giới, tuy nhiên sứ mệnh ấy cũng được nhập thể vào các thực tế chuyên biệt của địa phương»81. Thật thế, các tài sản của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ không chỉ mang ý nghĩa bên trong sự tương tác với Giáo Hội địa phương, nhưng đích điểm của chúng thì mở rộng cho các chiều kích phổ quát của sứ mệnh của Giáo Hội: từ sự chú tâm tới tất cả các hình thức của sự nghèo khổ cho tới các kế hoạch liên đới trong các vùng truyền giáo, chưa kể đến, việc đào luyện ứng sinh và chăm sóc cho người già.
Dù vậy, đời sống thánh hiến, là thành phần của gia đình giáo phận theo danh nghĩa tròn đầy.82 Vì lý do ấy sự tự lập chính đáng – mà Bản quyền sở tại có nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ (x. can. 586 § 2) -, không thể làm ngơ kế hoạch mục vụ của giáo phận hay tránh né sự tham khảo Giám mục trước khi tiến hành đóng cửa công cuộc. «Ngày nay hơn bao giờ hết, cần phải sống sự tự lập chính đáng và sự miễn trừ, nơi các Tu Hội hưởng năng quyền đó, trong sự tương quan chặt chẽ với sự tháp nhập, sao cho sự tự do đến từ tính đặc sủng và tính công giáo của đời sống thánh hiến, được biểu lộ ngay cả trong bối cảnh của Giáo Hội địa phương. Giáo Hội địa phương có lẽ không đáp ứng đầy đủ cho điều mà Đức Giêsu đã mong ước cho Giáo Hội của Ngài, nếu thiếu đời sống thánh hiến, vốn thuộc về cấu trúc cốt yếu của Giáo Hội, theo cùng một cách thức như đời sống giáo dân và tác vụ thánh. Và chính do mục tiêu đó, theo giáo huấn của Công đồng Vaticano II, ngày nay chúng ta nói tới sự đồng hiện hữu của các tặng ân phẩm trật và tặng ân đặc sủng (x. LG 4), vì do cùng một Thánh Thần tuôn đổ và chúng nuôi dưỡng đời sống của Giáo Hội và hoạt động truyền giáo của Giáo Hội»83.
30. Về phía các ngài, các Giám mục giáo phận được mời gọi quí trọng các người thánh hiến, «là ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giêsu»84, vượt qua lối đánh giá theo phạm trù tiện ích và tính chức năng; đạt đến một sự hiểu biết về tính phổ quát của sự phục vụ của người thánh hiến và đến một sự cộng tác hỗ tương. «Các mục tử được mời gọi để kính trọng, không lèo lái, tính đa dạng vốn làm nên Giáo Hội, và qua đó Giáo Hội được biểu lộ».85
Để có thể hiểu đầy đủ sự mở ra cho Giáo Hội phổ quát và, đồng thời, nhu cầu và bổn phận cộng tác với Giáo Hội địa phương, không thể thiếu việc khởi đi từ một viễn cảnh thần học về sự hiệp thông. Khi mà sự hiệp thông không phải là tiền đề của mọi tương quan của Giáo Hội, thì có nguy cơ rơi vào logic của sự yêu sách lẫn nhau. Vì thế, cần phải cổ võ những mối tương quan đặt nền trên nguyên lý của sự hiệp thông, dựa trên tình huynh đệ và cùng làm với nhau.
Các đặc sủng: Khả năng hội nhập
31. Tình huynh đệ là từ ngữ chủ chốt diễn tả tốt hơn những từ ngữ khác về tính chân chính của đời sống thánh hiến nhằm xây dựng Giáo Hội. Thật vậy, các đặc sủng biểu lộ sự chân chính Tin mừng của chúng trong tình huynh đệ nói chung và bên trong chính tình huynh đệ của chúng ta. Học thuyết xã hội của Giáo Hội tha thiết mời gọi tìm ra những cách thức để áp dụng, thực hành, tình huynh đệ như nguyên lý cho trật tự kinh tế của chúng ta. Đang khi những đường hướng tư tưởng khác chỉ nói về sự liên đới, thì Học thuyết xã hội của Giáo Hội nói về tình huynh đệ, vì một xã hội huynh đệ tự nó cũng là liên đới, trong khi không phải luôn luôn liên đới thì có tình huynh đệ, như kinh nghiệm đã cho thấy. Tình huynh đệ là “một lối sống hàm chứa khả năng sống với nhau trong sự hiệp thông. Đức Giêsu đã nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có Thiên Chúa là Cha chung và điều này khiến chúng ta thành anh em với nhau. Tình yêu huynh đệ chỉ có thể là nhưng không, không bao giờ có thể là một sự bù đắp lại cho cái mà người khác đã làm, cũng không phải là một cái gì làm trước với hy vọng để được người kia làm gì đó»86. Theo nghĩa này «một lần nữa cần phải thấy rằng chúng ta, người này cần đến người kia, rằng chúng ta có trách nhiệm đối với người khác và với thế giới»87.
Tinh thần trách nhiệm có nghĩa là đi vào ngay cả trong cái logic của một nền văn hóa mới về điều hành quản trị, vốn kính trọng và đề cao những lãnh vực của Giáo Hội địa phương.
Nền văn hóa được kích hoạt qua một sự đối thoại chia sẻ và sự nghiên cứu để đề ra những tiêu chuẩn để giữ gìn và cổ võ gia sản của Giáo Hội. Gia sản ấy vượt xa những bất động sản và bao gồm cả những kinh nghiệm, những kiến thức, những năng lực, những sự chuyên nghiệp vốn tạo nên phẩm chất cho các công cuộc lớn nhỏ từ quá khứ tới hiện tại; đó là lịch sử cho thấy những điều cần và những nhu cầu của Giáo Hội địa phương.
32. Ngày nay không còn được phép suy nghĩ cách riêng rẽ nữa, như thể các vấn đề nảy sinh từ sự điều hành quản trị các công cuộc chỉ là vấn đề riêng của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ. Ở đây người ta thấy được một tình trạng mà theo lịch sử có thể hiểu được: người ta đã từng hầu như luôn suy nghĩ theo phạm trù đây là công cuộc “của chúng ta” và Giáo Hội địa phương thì đã coi các công cuộc đó là “công cuộc của các Tu sĩ”.
Bối cảnh Giáo Hội ngày nay đòi một sự thay đổi thực sự về não trạng: ngoài vấn đề thực tế về sự liên tục trong điều hành quản trị, còn có trách vụ phải suy nghĩ, cùng với các chủ thể khác của Giáo Hội, về những giải pháp khả thể sao cho có thể bảo đảm được ý nghĩa Giáo Hội cho các công cuộc của chúng ta. Chính vì thế mà hành trình hoán cải là một bước đường hiệp thông. Tương lai của các công cuộc liên quan đến chúng ta như là Giáo Hội và như là Giáo Hội, tương lai ấy phải được đối diện.
Khả năng tháp nhập vào Giáo Hội ở ngay chính khởi nguồn của các công cuộc, vốn không phát sinh để đáp ứng cho những kế hoạch xa lạ với nhu cầu của dân chúng. Vấn đề tháp nhập ngày nay được biến thành “cùng làm với nhau”. «Nó thúc đẩy cộng tác với nhau, chia sẻ với nhau, chuẩn bị đường cho những tương quan được điều hành bởi cảm thức chung về trách nhiệm. Con đường này mở ra những chiến lược mới, những thể thức mới, những thái độ mới. [...] “cùng làm với nhau” thật vậy, có nghĩa là thiết lập công việc không dựa theo tài cán riêng của một cá thể, nhưng trên sự cộng tác của nhiều người. Nó có nghĩa, theo cách nói khác, “làm thành mạng lưới” để trân trọng tặng ân của mọi người, mà không bỏ quên tính duy nhất không lập lại của từng người. [...] thực hiện những bước đi can đảm để việc “đến với nhau và cùng làm với nhau” không chỉ là một khẩu hiệu, nhưng còn là một chương trình cho hiện tại và tương lai»88. Lời mời gọi cộng tác này có giá trị kể cả cho các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ vốn lưu tâm «với sự can đảm, đi ra khỏi biên cương của chính Tu Hội để soạn thảo cùng nhau, ở bình diện địa phương cũng như thế giới, những kế hoạch chung về đào luyện, rao giảng Tin mừng và, hoạt động xã hội»89.
33. Cùng làm với nhau cũng bao hàm một sự cùng phối hợp và chia sẻ ở bình diện lập kế hoạch và bình diện điều hành quản trị, não trạng, văn hóa và thực hành mà nếu được thực hiện cách nghiêm túc, có thể bảo đảm sự liên tục cho không ít công cuộc, sự hữu hiệu về Tin mừng của chúng và sự lâu bền về mặt kinh tế. Tính hữu hiệu làm chứng cho Tin mừng về đức bác ái; tính lâu bền làm chứng cho một Giáo Hội biết tạo lập một mạng lưới liên đới để cổ võ phẩm chất và tính đáng tin cậy của sự phục vụ.
Một mạng lưới liên đới được cổ võ không chỉ để nâng cao phẩm chất điều được cống hiến, nhưng nhất là để nâng cao tính đáng tin cậy. Đây mới là tài sản giá trị trong đó các điều này đan kết với nhau: tính khả tín, sự gắn kết và nhất quán của một tầm nhìn về kế hoạch và điều hành quản trị; tính chuyên nghiệp, chú ý và mở rộng đối với sự học hỏi và không chỉ nhằm tới hiệu quả - hiệu suất mà thôi; tính kinh nghiệm, cũng gắn liền với sự liên tục theo thời gian, nhưng nhất là với sự canh tân và sự sáng tạo.
Tính đáng tin cậy tái sắp xếp lại trật tự của các ưu tiên và vì thế ưu tiên cho sự nhìn nhận và tính tương quan. Ngày nay cần phải đầu tư nhiều hơn vào một nền văn hóa của sự tương quan có tính Giáo Hội trong sự ý thức rằng tính đa dạng của các chủ thể liên lụy ở bên trong các cảnh huống của chúng ta, nhiều hơn những gì chúng ta liên lụy bởi thực tại của sự hội nhập.
III- CHIỀU KÍCH KINH TẾ VÀ SỨ MỆNH
Tính lâu bền của các công cuộc
34. «Sự thách đố khẩn cấp phải bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta bao gồm cả sự lo sao để nối kết tất cả gia đình nhân loại trong việc tìm ra một sự phát triển lâu bền và toàn diện, bởi vì chúng ta biết rằng sự vật có thể thay đổi được»90. Trong bối cảnh lịch sử hiện nay, các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ chấp nhận các thách đố mà thời đại chúng ta đặt ra, tìm cách xác định những giải đáp mang tính ngôn sứ cho một sự phát triển kinh tế và phát triển nhân bản đáng kính trọng. Những nhu cầu đã thay đổi và các bối cảnh văn hóa, xã hội và pháp luật khác nhau, thường đòi hỏi, một mặt là bỏ đi những phương thức hoạt động không còn phù hợp nữa, đàng khác một sự tiếp cận mạnh dạn và sáng tạo để «tái suy tư về những mục tiêu, cơ cấu, và cách thức»91.
Đức thánh cha Phanxicô trong sứ điệp hướng tới các tham sự viên của Hội nghị được tổ chức bởi Bộ các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ, nhắc nhở rằng «trung thành với ơn gọi, chúng ta dấn mình kiên trì phân định sao cho các công cuộc, nhất quán với đặc sủng, tiếp tục trở nên dụng cụ hữu hiệu để làm cho nhiều người gặp được sự chăm sóc dịu dàng của Thiên Chúa. [...] Sự trung thành với đặc sủng thường đòi chúng ta sự can đảm: đây không phải là chuyện bán đi hết tất cả hay cho ngưng những công cuộc. nhưng là làm một sự phân định nghiêm túc [...] sự phân định có thể gợi lên sự duy trì một công cuộc dù có thể gây tổn thất, nhưng phải chú ý kẻo điều này xảy ra chỉ vì bất lực hay kém cỏi»92.
Để đánh giá sự lâu bền của các công cuộc, cần phải áp dụng một phương pháp lưu tâm đến mọi khía cạnh và tất cả các tương quan có thể có, đang khi luôn lưu tâm đến các chiều kích đặc sủng, tương quan và kinh tế của mỗi công cuộc cũng như của toàn thể Tu Hội.
35. Chiều kích đặc sủng và tính hoạch định. «Cần phải bắt đầu việc đọc lại sứ mệnh theo như đặc sủng, bằng việc kiểm chứng xem căn tính đặc sủng của các trường hợp thiết lập có nằm trong các đặc tính của các giải pháp thực hiện không [...]. Thật vậy, có thể xảy ra, thấy là việc điều hành quản trị các công cuộc không còn đi theo với biểu hiện hiện thời của sứ mệnh, và các bất động sản không còn phục vụ cho các công cuộc diễn tả đặc sủng nữa»93. Cần phải xác định «đâu là những công cuộc và hoạt động phải tiến hành, đâu là công cuộc và hoạt động cần loại bỏ hay thay đổi, đâu là những biên cương mới cần bắt đầu khai triển và chứng tá cho sứ mệnh, đáp ứng lại nhu cầu của ngày hôm nay, trong sự trung thành tròn đầy với đặc sủng»94.
Cần vượt qua não trạng coi là đối chọi giữa việc lên kế hoạch và việc lên chương trình cho những hoạt động và những công cuộc với sự mở ra cho sự mới mẻ của Thần Khí. Trái lại, nhiều trực giác đã không thành công vì không được đi theo bởi một kế hoạch và/hay việc lên chương trình: không xác định những mục đích, không định ra cách thức thực hiện và kiểm chứng sự tương thích về tài chánh-kinh tế. Tất cả những điều này có nguy cơ gây nên một sự tách rời giữa các lý tưởng và thực tế khả thi, giữa sứ mệnh và kinh tế, dẫn tới việc định ra những nhận định và đánh giá không chính xác, áp dụng những phương thức không hữu hiệu.
Sự cần thiết của việc lên kế hoạch và lập chương trình không thể được giải thích theo bất cứ cách nào như là giảm lược lý tưởng, như một trói buộc cho sự sáng tạo, như thể thiếu tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Trái lại, ở đâu mục tiêu đặc sủng được nhìn nhận, thì nơi đấy kinh tế được đặt ra để phục vụ cho tính ngôn sứ trong một kế hoạch cụ thể và hữu hiệu.
36. Chiều kích tương quan và tình huynh đệ. Như đã nói bên trên, không thể bỏ qua việc tái khám phá diện mạo nhân bản của nền kinh tế, nơi mà tính trọng tâm của con người và thiện ích đích thực của nó không bao giờ bị lãng quên. Sự chú tâm để đặt phẩm giá của mỗi con người và thiện ích chung làm trọng tâm,95 dẫn đến sự cần thiết phải có những tương quan tích cực. Trong sự phong phú của các tương quan làm nên tình huynh đệ, các người thánh hiến trải nghiệm sứ mệnh được thiết lập nên như thế nào bởi những con người sẵn sàng chia sẻ cuộc sống và đức tin, để có được kinh nghiệm về sự hiệp thông và sự cộng tác. Các tương quan huynh đệ, đặt nền trên sự kính trọng chân thành và tín nhiệm hỗ tương, trở thành nguồn lực quí báu cho sự điều hành quản trị.
Theo cách thức này, các công cuộc sẽ được điều hành quản trị trong một tinh thần mở rộng, hiệp thông và đồng trách nhiệm, ngay cả khi sự chăm sóc được ủy thác cho một ít người thánh hiến. Trái lại, trong một số trường hợp, chúng được ủy thác cho trách nhiệm của các cá nhân, mà chẳng dự liệu trước cho họ những thời điểm dành cho việc đối diện và kiểm chứng. Điều này có thể dẫn tới một sự cá nhân hóa, kể cả là có khi không hữu ý, việc điều hành quản trị dựa trên tài năng riêng, sự chuyên biệt và nhanh nhậy, vì thế làm cho sự tìm kiếm cách thức giải đáp cho những tình huống thực tế khác nhau bị hạn chế. Thường xảy ra là người ta không quan tâm đào tạo những người có thể tiếp nối để làm cho công cuộc được tiếp tục cách tốt đẹp.
Việc lên kế hoạch và / hay việc lập chương trình, vốn khởi đi từ việc lắng nghe hỗ tương, cho phép có một cái nhìn chung về các công cuộc và về những giải pháp cho các nhu cầu, cống hiến khả thể vượt qua khuynh hướng tự qui, vượt qua những chia rẽ và những khác biệt, bằng việc tìm kiếm những giải pháp thuận lợi cho tất cả và cùng được chia sẻ. Đây chính là gỡ mình ra khỏi cái ý thức hệ về con người kinh tế - homo oeconomicus, con người không bao giờ no thỏa trong ham muốn của cải, mà do dó các chọn lựa của nó bị tất định bởi sự vun đắp tối đa những quan tâm cá nhân và thách đố con người huynh đệ - homo fraternus, vốn không bao giờ mệt mỏi trong chọn lựa tình huynh đệ"96.
37. Các đặc sủng và chiều kích kinh tế. Sự cân bằng tài chánh-kinh tế trong các hoạt động của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ không thể là tiêu chuẩn duy nhất cần lưu tâm khi phân định về tính bền vững của các công cuộc. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng giữa đặc sủng và việc điều hành quản trị các tài sản không có sự mâu thuẫn; điều hành quản trị theo các tiêu chuẩn kinh tế học không bóp nghẹt đặc sủng, nhưng làm cho có thể theo đuổi và thực hiện những mục tiêu cùng chia sẻ. Bảo đảm sự liên tục và sức sống cho đặc sủng hàm ý rằng không hoạt động với sự hời hợt và kém cỏi. Kinh nghiệm của Bộ các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ cho thấy rằng nơi đâu không chú ý đủ tới các vấn đề thuộc lãnh vực điều hành quản trị, các vấn đề ấy kết cục sẽ làm tiêu tán cả sứ mệnh.
Đời sống thánh hiến cống hiến cho thế giới một chứng từ phúc âm khi nó giữ cho nhiệt tình tông đồ được sống động và bảo đảm cho sự vững bền của các công cuộc qua một sự điều hành quản trị ý thức và quân bình.
Gia sản cố định
38. Để có được sự điều hành quản trị có trật tự và có tầm nhìn xa, đòi phải tiến hành một sự xem xét tổng quát về các tài sản của Tu Hội, đòi không tránh né việc đưa ra những qui tắc mà đôi lần Giáo luật truyền phải đưa ra để bảo đảm cho sự tồn tại của Tu Hội và giúp cho việc theo đuổi các mục tiêu thiết yếu được thuận lợi (gọi là gia sản cố định). Thật thích đáng việc quan tâm để bắt đầu làm bản kê khai về các tài sản được chỉ định là gia sản cố định, và hoàn tất những thủ tục theo thể thức để chỉ định, nơi đâu chưa làm việc này.
Vì mục đích này luật riêng của mỗi Tu Hội được mời gọi để ấn định về thẩm quyền nào tiến hành việc chỉ định qua một nghị quyết thích đáng. Sự dự liệu đó phải có trong bộ luật nền tảng hay trong một văn kiện quy pháp của luật riêng, với lời văn sau đây hay một lời văn có giá trị tương tự: Gia sản cố định được cấu tạo bởi tất cả những bất động sản và động sản đã được chỉ định cách hợp luật nhằm để bảo đảm sự an toàn về kinh tế của Tu Hội. Đối với các tài sản của toàn thể Tu Hội, sự chỉ định đó được thực hiện bởi Tổng Tu Nghị hay bởi Bề Trên Tổng Quyền với sự đồng thuận của Ban Cố Vấn ngài. Đối với tài sản của một Tỉnh Dòng, cũng như đối với tài sản của một nhà đã được thành lập cách hợp luật, sự chỉ định đó được thực hiện bởi Tu Nghị Tỉnh hay bởi các cuộc Hội nghị tương tự (x. can. 632), hoặc bởi Bề Trên Tỉnh với sự đồng thuận của Ban Cố Vấn ngài và được xác nhận bởi Bề Trên Tổng Quyền.
39. Gia sản cố định được hợp thành bởi các bất động sản và động sản, bảo đảm cho sự tồn tại của Tu Hội, của các Tỉnh Dòng và của các nhà đã được thành lập cách hợp luật cũng như của các thành viên và bảo đảm cho việc thực hiện sứ mệnh. Thuộc từ cố định được hiểu như sự bảo đảm mà không thể không lưu tâm tới sự nhất quán với «mục tiêu phù hợp với sứ mệnh của Giáo Hội» (can. 114 §§ 1-2) cũng như sứ mệnh chuyên biệt của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ.97
Có thể chỉ định cách hợp pháp thành tài sản cố định:
a) những bất động sản, chẳng hạn như, những nơi thực hiện các hoạt động, nơi ở của cộng đoàn, nơi chăm sóc các thành viên cao niên và bệnh, các tài sản đặc biệt quan trọng xét theo quan điểm lịch sử nghệ thuật, hay những tài sản gắn liền với cội nguồn hay ký ức của chính Tu Hội, chẳng hạn như Nhà Mẹ. Tầm mức rộng của các tài sản phải tỷ lệ với khả năng điều hành quản trị của Tu Hội, của Tỉnh Dòng hay của nhà cộng đoàn;
b) những bất động sản cần cho sự tồn tại của Tu Hội, của Tỉnh Dòng hay của nhà dòng. Các tài sản được gọi là các lợi tức, được lập nên để cho pháp nhân có thể tồn tại hay thêm vào các thu nhập thông thường. Trong những trường hợp này, phải tránh sao cho các tài sản ấy trở thành động lực hiện hữu của pháp nhân cũng như tránh để không trở thành sự tích lũy của cải;
c) Các động sản cần cho sự tồn tại của Tu Hội, của Tỉnh Dòng hay của nhà cộng đoàn và cho sự thực hiện mục tiêu liên hệ. Những tài sản ấy được giữ cho không di chuyển và được chỉ định cách hợp luật vào gia sản cố định. Ở đây không nói tới các tài sản cần cho việc điều hành quản trị thông thường về kinh tế, nhưng là những động sản được chuyển thành nguồn vốn và được đầu tư trong những hình thức khác nhau của hệ thống tài chánh, theo những gì nói ở số § 84;
d) những bất động sản và động sản mà, do tầm quan trọng về lịch sử, nghệ thuật và sự quí giá, tạo thành gọi là những tài sản văn hóa, ký ức lịch sử của Tu Hội, của Tỉnh Dòng hay của nhà dòng; các tài sản ấy có thể giống như hồi môn, nhưng cũng là một nhiệm vụ kinh tế vì những đòi hỏi của việc giữ gìn và bảo trì;
e) quỹ canh phòng và an toàn, tỷ lệ với các công cuộc của Tu Hội, của Tỉnh Dòng hay của nhà cộng đoàn, cần thiết để bảo vệ Tu Hội trong trường hợp có những hoạt động đang thực hiện mà có thể xảy ra nguy hiểm kinh tế quan trọng cho Tu Hội. Quỹ này cần phải được ấn định (gọi là quỹ an toàn).
40. Trong việc chọn những tài sản nào để đưa vào gia sản cố định, cần phải suy xét xem đâu là những tài sản mà nếu không có chúng, pháp nhân sẽ không có phương tiện để đạt tới mục đích riêng của nó; cũng như cần phải đo lường thực thể tính của các tài sản ấy với bản chất, với các mục đích và các nhu cầu của chính pháp nhân; lưu ý rằng có một số tài sản do bản chất của chúng, chúng không thể được dùng, vì kéo theo sự tan rã của chính pháp nhân, và sẽ không hợp pháp nếu không tiến hành chỉ định làm gia sản cố định với mục đích duy nhất là để tránh rơi vào luật thời hiệu của giáo luật về sự chuyển nhượng. Thật vậy, sự lập nên gia sản ấy, được đặt ra để bảo vệ và bảo đảm cho chính các tài sản ấy.
Để có được sự điều hành quản trị đúng về các tài sản đã được chỉ định làm tài sản cố định, cần phải soạn thảo một bản kê khai chính xác về các gia sản bất động sản của Tu Hội, của Tỉnh Dòng và của nhà dòng, chỉ rõ về các dữ liệu địa chính, về nguồn gốc của các bất động sản, về các ràng buộc nếu có, về tình trạng bền bỉ của các tài sản và tình trạng bảo trì của chúng; còn thích đáng hơn nữa đó là định kỳ duyệt xét lại về thể thức nhượng cho bên thứ ba những bất động sản hay một phần của chúng; cũng là ích lợi việc lưu giữ một danh sách riêng về các bất động sản và động sản có tầm quan trọng về lịch sử, nghệ thuật hay sự quí giá; và sau cùng luôn cần phải canh chừng sự điều hành quản trị các tài sản đã được chỉ định làm gia sản cố định, sao cho được liên tục phù hợp với sứ mệnh của Tu Hội, để cho không chất nặng bởi những gia sản hay hoạt động xa lạ với gia sản và hoạt động theo luật định. Theo nghĩa này, cố định không đồng nghĩa với sự bọc kín lại. Sự chuyển biến mau lẹ không thể tránh được của các hệ thống tài chánh- kinh tế đòi phải có sự đánh giá định kỳ (theo những đáo hạn được coi là đang hiệu lực) về từng tài sản đã đưa vào trong gia sản.
Tinh thần trách nhiệm, sự minh bạch và sự tín nhiệm
41. Trách nhiệm, sự minh bạch và bảo vệ sự tín nhiệm là những nguyên lý bao hàm nhau: người ta không cho thấy tinh thần trách nhiệm mà không cho thấy sự minh bạch, sự minh bạch làm phát sinh sự tín nhiệm, sự tín nhiệm đòi có cả tinh thần trách nhiệm lẫn sự minh bạch.
Tinh thần trách nhiệm là nguyên lý của sự ý thức vốn hướng dẫn sứ mệnh rao giảng Tin mừng xét trong tương quan với các tài sản của Giáo Hội.
Sự ý thức về những nhân tố liên quan đặt ra những điều kiện cốt yếu để thực hiện những chọn lựa có đích nhắm và làm chúng được hoàn thiện thêm sau đó hay thậm chí có thể thay đổi chúng hoàn toàn. Nhất là sự thu thập thông tin cách chăm chú và kịp thời về những số liệu của việc điều hành quản trị cho phép áp dụng những can thiệp chỉnh đốn cần thiết trước khi chúng nảy sinh những tình trạng tiêu cực không thể đảo ngược. Ngược lại, một lối hành động về kinh tế không được kiểm soát thích đáng sẽ làm phung phí nguồn lực, ngược lại với hướng dẫn căn bản của Giáo Hội nhắc nhớ về việc sử dụng tài sản rằng, tận cùng, chúng hướng tới thiện ích chung. Thiện ích chung đòi phải “được phục vụ cách tròn đầy, không theo những nhãn quan giảm lược vào thuận lợi cho phía những người có thể tận dụng, nhưng là dựa trên một logic hướng tới một sự lãnh trách trách nhiệm rộng lớn hơn».98
Việc mang trách nhiệm đầu tiên là đứng trước cộng đoàn dân sự và giáo hội, và nhất là đứng trước Tu Hội của mình. Vì thế đây là một trách nhiệm khiến phải nghĩ đến, một đàng là phải trả lời với ai, và đàng khác, là khả năng có những động lực nhất quán với những chọn lựa điều hành quản trị. Từ trách nhiệm mà phát sinh, không chỉ điều này, sự đòi buộc canh chừng và kiểm soát. Sự canh chừng và kiểm soát này không được hiểu như là một giới hạn cho sự tự lập của các thực thể hay thiếu sự tín nhiệm, nhưng là một phục vụ cho sự hiệp thông và cho tính minh bạch, và sự bảo vệ đứng trước những người thực hiện nhiệm vụ tế nhị của việc quản lý.99
42. Giới hạn vào những gì đã trình bày ở trên, hạn từ “sự minh bạch” muốn nói chỉ về khả năng giải thích về các hoạt động, về các chọn lựa đã làm và về các kết quả đã đạt được. Sự báo cáo và các bản chi thu – là dụng cụ của sự minh bạch – cho phép có được một bức tranh tổng hợp, nhưng đồng thời nghiêm chỉnh, về các hoạt động đã thực hiện và các kết quả của nó, giúp cho các quản trị viên có được kỹ năng báo cáo về những gì mình đã làm, về những chọn lựa của mình và nói cách chung hơn về hành xử của mình. Việc báo cáo cũng cổ võ cho sự thận trọng trong việc quản lý các tài sản. Thật vậy, một sự hiểu biết càng lớn, thì càng giúp chỉ ra rõ hơn những nguy cơ, và nếu xảy ra, biết được những cách thế phải thực hiện.
Trong nhãn quan này mà có thể hiểu được mối tương quan nội tại giữa trách nhiệm và sự minh bạch. Sự nhấn mạnh không chỉ liên quan đến các trách nhiệm của người có chức năng (các bề trên, các quản lý, các quản trị viên, các cộng tác viên) cho bằng – như đã nhấn mạnh bên trên – liên quan đến tính có thể duyệt xét về các lý do hướng dẫn các chọn lựa điều hành quản trị và nỗ lực tương ứng để đưa ra giải pháp cho những vấn đề hay cho những điểm khúc mắc nổi lên.
Như thấy rõ, các luật về sự minh bạch ngày càng được luật dân sự đặt ra chặt chẽ và đòi hỏi, để bảo đảm sự chính xác và sự hợp luật của bất cứ chủ thể nào, đó là chưa kể đến lý do sự bền vững của các công cuộc của Tu Hội. Cần nói thêm rằng, các luật đó ngày càng trở nên phức tạp hơn và kỹ lưỡng hơn. Và vì thế trang bị để có chuyên môn và biết thủ tục phù hợp cũng là một bổn phận; điều đó không chỉ ở bình diện từng đơn vị hoạt động riêng rẽ, nhưng còn liên hệ đến những cơ cấu chuyên, ở bình diện quốc gia và quốc tế.
43. Việc báo cáo và những bản chi thu góp phần để làm gia tăng tính khả tín của chủ thể trình bày chúng, và, do đó, giúp làm tăng thêm sự tín nhiệm. «Không tuân luật lệ nào thì cũng chẳng có sự tín nhiệm»100, nghĩa là sự tín nhiệm được sinh ra cả từ những quy luật vốn xác định trách nhiệm và thẩm định sự minh bạch. Sự tín nhiệm là cái vốn không thể bị tổn hại bởi các tình huống hay sự việc có thể làm suy yếu tính khả tín của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ trong cộng đoàn dân sự và giáo hội; không có cái vốn là sự tín nhiệm đó thì chính chứng tá nghèo khó thánh hiến cá nhân và tập thể cũng bị “nghi vấn”. Thật vậy một nền văn hóa và thực hành minh bạch không thể bị tách khỏi lòng trung thành với lịch sử và truyền thống đặc sủng liên quan đến lời khấn nghèo khó và không thể bị tách khỏi quy tắc pháp lý quân bình liên quan đến sự phụ thuộc, sự giới hạn trong việc sử dụng và xếp đặt của cải (x. Can. 600). Có một tương quan giữa việc nhìn nhận được tín nhiệm và sự áp dụng những phương thế báo cáo và các bản thu chi. Kinh nghiệm chung cho thấy: càng có sự minh bạch về điều hành quản trị, thì càng tăng khả thể và sự sẵn sàng về nguồn lực công cộng cũng như riêng tư.
Văn khố
44. Bộ Giáo luật, ở các can. 1283 và 1284, thúc giục một sự lưu giữ có trật tự về Văn khố và, với mục đích có được một tổ chức quản lý và sổ sách hiệu nghiệm. Giáo luật qui định phải soạn thảo và liên tục cập nhật bản danh mục các tài sản và các khoản tiền nhận được do trao phó, một sự đánh số liệt kê và lưu giữ cẩn thận các tài liệu, đặc biệt những bản viết sổ sách kế toán và những bảo hiểm đề phòng các nguy cơ. Các văn khố, nếu được điều hành tốt, sẽ là một dụng cụ ích lợi để duyệt xét về các sáng kiến đã thực hiện, theo thời hạn ngắn, trung bình và dài. Vì thế cần phải ấn định những tiêu chuẩn để thu thập các văn liệu, để sắp xếp chúng cách hữu lý, để phân biệt chúng theo thể loại. Cần phải cho mọi quản trị viên về tài sản giáo hội biết về trách nhiệm phải gìn giữ tài liệu theo như những qui định của giáo luật.
Các tài sản là đối tượng của việc ghi sổ cả khi mua tậu, xây dựng, dâng tặng hay hành vi nào hoặc công việc gì khác khiến có thêm vào trong tài sản, hay tạo ra sự biến thiên của chúng hay sự xuất ra của chúng. Cách đặc biệt phải lưu giữ tất cả các văn liệu chứng minh chủ quyền của các bất động sản và động sản. Chính chất liệu từ văn từ của một việc quản lý cho phép biết được các tiến trình quản trị của một Tu Hội; cho phép dự liệu một chương trình thích hợp, đang khi lưu tâm đến nguồn lực; cho phép chứng minh các quyền lợi trong trường hợp có tranh chấp; cho phép hoạt động với sự minh bạch về quản trị; cho phép lưu giữ ký ức lịch sử và học hỏi cách thức trong đó đặc sủng đã được thực hiện trong thời gian. Liên quan đến điều này, trong phạm vi của các văn khố giáo hội, đôi khi người ta còn phải đạt cho được, nơi đâu có thể, một não trạng điều hành tương thức với các công nghệ hiện đại. Hơn nữa, việc sử dụng các công nghệ nói trên, là phù hợp để lưu giữ trong một nơi có bảo vệ bản sao của các tài liệu có giá trị quan trọng, với mục đích là không để mất tất cả các tài liệu trong trường hợp xảy ra sự cố.101.
Bốn nguyên lý từ Niềm Vui Tin Mừng
45. Dưới ánh sáng của các tiêu chuẩn mà đức thánh cha Phanxicô đã cống hiến cho toàn thể Giáo Hội trong Tông huấn Niềm vui Tin mừng - Evangelii gaudium có thể xác định được một số điểm gắn liền với một sự điều hành quản trị được gợi hứng theo đặc sủng của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ. «Chúng định hướng cách đặc biệt cho việc phát triển sự chung sống xã hội và cấu tạo nên một dân trong đó các sự khác biệt được hài hòa bên trong một kế hoạch chung»102.
46. Thời gian thì vượt trên không gian103. Đức thánh cha thường hay nói «Khởi động các tiến trình».104 Đời sống thánh hiến được gọi để khởi động các tiến trình, được gọi để thực hiện một lối hoạch định mới. «Đã nhiều năm chúng ta bị cám dỗ tin, và rất nhiều người chúng ta đã lớn lên với cái ý tưởng rằng gia đình tu sĩ phải chiếm những khoảng không gian hơn là khởi động những tiến trình, và đây là một cám dỗ. Chúng ta phải khởi động những tiến trình, chứ không phải là chiếm những khoảng không gian».105 Một trong những đặc điểm của tất cả các diễn tả xuất phát từ các đặc sủng đó là chúng xuất phát từ một tác nhân chuyển động mà trước hết không có tính kinh tế, không có ý đơn thuần là chiếm lĩnh những khoảng không gian quyền lực, nhưng phát sinh như là diễn tả của một lý tưởng, từ một cái nhìn vượt xa, có khả năng hiểu các nhu cầu của con người, đặc biệt của những người nhỏ bé và mỏng dòn hơn và cụ thể hóa những điều ấy qua một não trạng kế hoạch. Nếu các đặc sủng bùng lên trong lịch sử cho thấy một tiến trình thay đổi thiêng liêng, nhân bản, kinh tế và dân sự, thì cần phải thấy rằng tiến trình đó xảy đến ngang qua những thực tại mà mỗi đặc sủng phát xuất ra, và kéo dài với thời gian.
Ở đây muốn nói tới sự ưu tiên và việc đồng hành với sự kiên nhẫn sự khởi đầu của các tiến trình, thực hiện một cái nhìn vượt xa, cái nhìn về tương lai bất kể đến những kết quả trước mắt, dù kết quả ấy có thể do cả cảm thức về trách nhiệm và ý định tốt đẹp nhất có thể mang lại. «Không gian – thông điệp Ánh sáng đức tin – Lumen fidei nhấn mạnh – làm hóa cứng các tiến trình, thay vào đó, thời gian dọi phóng vào tương lai và thúc đẩy tiến bước với niềm hy vọng»106.
47. Thực tại thì quan trọng hơn ý tưởng107. «Ngày nay thực tại chất vấn chúng ta – cha nhắc lại – thực tại mời chúng ta một lần nữa trở thành một chút men, một chút muối [...] Một số nhỏ đã được chúc phúc, được mời để làm dậy men một lần nữa, làm dậy men theo như những gì Thánh Thần đã khơi dậy trong cõi lòng của các đấng sáng lập của chúng con và trong cõi lòng của chính chúng con. Đây là điều mà chúng ta cần làm hôm nay»108.
Đức thánh cha Phanxicô nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thực tại. Ý tưởng là hoa trái của sự nghiên cứu lại luôn có nguy cơ rơi vào trong ngụy biện, vì tách mình khỏi cái thực tế. Đôi lần ngay cả trong các Tu Hội chúng ta gặp nguy cơ hình thành nên những đề xuất có tính luận lý sáng sủa, hình thành nên những văn liệu, có lẽ đầy hấp dẫn, nhưng lại xa với thực tại của chúng ta và của những người mà chúng ta được sai tới. Thật vậy, đôi lúc chúng ta để mình lóa mắt vì sự mới mẻ của các sáng kiến, của những cái bình chứa và chúng ta quên rằng sự thay đổi quan trọng hơn phụ thuộc vào chúng ta và vào lòng muốn cũng như khả năng của chúng ta thực hiện nó. Logic của sự nhập thể (1 Ga 4, 2) là tiêu chuẩn hướng dẫn ở điểm này.
Các công cuộc của các Tu Hội của chúng ta sinh ra từ sự lắng nghe Thiên Chúa để đáp lại các nhu cầu của những con người cụ thể. Chúng không sinh ra từ những bản thiết kế trừu tượng ở bàn giấy, nhưng như lời giải đáp cụ thể cho những nhu cầu của những con người thực, những người mà chúng ta biết cuộc sống của họ, câu chuyện của họ, những khó khăn của họ. Đặc biệt khi đọc về nguồn gốc lịch sử của các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ, người ta thấy được gần như có sự nối kết không thể tách được giữa sự linh hứng đặc sủng với sự tiếp đón những người thấp kém, những người nghèo và những người bị loại trừ.
Đời sống thánh hiến ngày hôm nay cũng được kêu gọi để đáp lại những câu hỏi mà lịch sử đặt ra. Và thường điều này xảy ra với những kinh nghiệm đơn giản: những kinh nghiệm luôn chứa đựng sự thật, chúng ta lắng nghe cuộc sống, từ đó mà có những trực giác, để rồi khởi sự những kế hoạch của chúng ta. Chính cuộc sống là cái luôn đến trước, chính cuộc sống “được lắng nghe và kính trọng” với sự khiêm tốn.
48. Cái toàn thể thì lớn hơn từng phần109. Chúng ta được mời gọi mở rộng tầm nhìn để luôn nhìn nhận điều tốt lớn hơn. Đời sống thánh hiến không thể đóng lại trong chính mình, không thể để mình bị ám ảnh bởi những vấn đề hạn hẹp và riêng biệt, nó phải nhìn nhận điều tốt lớn hơn làm ích cho tất cả mọi người.
Nguyên lý này phải được hiểu theo bức tranh đa diện phối hợp các sự khác biệt. Những khác biệt này đòi phải được chấp nhận nhờ vào một nền văn hóa đối thoại như một hành trình tìm kiếm vất vả điều lợi ích chung: chúng ta được mời gọi vạch ra những mối liên kết và những tương quan để làm chuyển động những gì không đồng bộ ở các cấp khác nhau (từ địa phương tới toàn cầu) và trong các lãnh vực khác nhau (từ vật chất đến tinh thần). Điều này bao hàm việc học để cùng làm việc với nhau, giữa các cộng đoàn, giữa các Tu Hội, với các người đời, với tất cả những ai tìm kiếm điều tốt.
Đời sống thánh hiến có thể giúp cho các Giáo Hội địa phương mở ra cho năng động tính của tính phổ quát và đồng thời mở ra cho sự sống của Giáo Hội địa phương nơi họ sống và thực hiện việc tông đồ riêng, tránh rơi vào sự cám dỗ làm cho «cái thành phần (cái phần nhỏ hay cái tầm nhìn của chúng ta về thế giới) trở thành lớn hơn toàn thể giáo hội»110.
49. Hiệp nhất ưu thế trên xung khắc, trên khác biệt111. Chúng ta được kêu gọi để chấp nhận các sự xung khắc, mang lấy nó chứ không phủi tay, không để bị nhốt trong cạm bẫy, để biến đổi những xung khắc ấy thành những tiến trình mới hướng đến sự hiệp thông dù có sự khác biệt phải được chấp nhận như chúng là. «Sự hiệp thông cũng hệ tại vào việc cùng nhau và liên kết với nhau đối diện những vấn đề quan trọng hơn như, sự sống, gia đình, hòa bình, đấu tranh chống lại sự nghèo khổ trong mọi hình thức, sự tự do tôn giáo và việc giáo dục. Đặc biệt, các phong trào và các cộng đoàn được mời gọi để cộng tác đóng góp chăm sóc những vết thương phát sinh do một não trạng vốn đã ở mức toàn cầu đặt sự tiêu thụ làm trung tâm, quên lãng Thiên Chúa và những giá trị cốt yếu của cuộc sống»112.
Như vậy sự liên đới, được hiểu trong ý nghĩa sâu xa nhất và thách đố của nó, trở thành một lối sống xây dựng, một lãnh vực sự sống nơi mà các xung khắc, các căng thẳng và các đối kháng có thể đạt tới một sự hiệp nhất đa dạng làm sinh ra một sự sống mới. Nó không có nghĩa là nhắm tới sự hỗn hợp hóa, cũng không nhắm tới thu cái này vào trong cái kia, nhưng là hướng tới cách giải quyết ở một bình diện cao hơn vốn gìn giữ được những tiềm năng quý giá của các cực đối kháng.
IV. NHỮNG CHỈ DẪN HÀNH ĐỘNG
50. Trong việc quản lý các tài sản và trong việc điều hành quản trị các công cuộc, việc phân định «nhìn vào sự điều hành, vào các mục đích, vào ý nghĩa và vào những hệ lụy xã hội và giáo hội của các chọn lựa kinh tế của các Tu Hội đời sống thánh hiến»113. Từ viễn cảnh này, những chân trời để đọc thực tại và một số tiêu chuẩn nền tảng đã được xác định để giúp cho sự phân định ấy.
Những chân trời rộng lớn trong đó các hoạt động kinh tế đi vào đó là: một nền kinh tế lưu tâm đến con người, trọn vẹn con người và cách đặc biệt những người nghèo; đọc kinh tế như dụng cụ cho hoạt động truyền giáo của Giáo Hội; và sau cùng, một nền kinh tế có tính tin mừng về sự chia sẻ và hiệp thông.
Những chân trời này được cụ thể trong một số tiêu chuẩn nền tảng.
51. Sự trung thành với Thiên Chúa và Tin Mừng. Mỗi cuộc đời thánh hiến đều đặt Thiên Chúa làm tối thượng, trong việc bước theo Chúa Kitô – sequela Christi. Mỗi người thánh hiến phải nhìn vào Ngài, chiêm ngắm Ngài, học nơi Ngài, bắt chước Ngài, theo Ngài, Đấng khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, để trở thành người trung thành loan báo Tin Mừng. Vì thế, không thể thiếu «hồng ân lắng nghe: lắng nghe Thiên Chúa, cho tới mức cùng Ngài nghe được tiếng kêu của Dân; lắng nghe Dân, tới mức hít thở nơi đó điều mà ý muốn của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta»114.
Trung thành với đặc sủng. Mỗi đặc sủng «luôn là một thực tại sống» được kêu gọi để «phát triển trong sự trung thành sáng tạo»115. Vì thế, sự trung thành với đặc sủng là sự nhất quán của các chọn lựa hành động trong một bối cảnh nhất định với những đặc tính thể hiện căn tính của Tu Hội.
Sự nghèo khó. Một sự «khổ hạnh có trách nhiệm»116, một sự «khiêm tốn lành mạnh và một sự chừng mực vui vẻ»117 giúp cho thanh thoát khỏi một lối suy nghĩ sở hữu chủ về tài sản, và giúp cho có sự sẵn sàng đặc biệt để lắng nghe «tiếng kêu của người nghèo, người nghèo từ xưa và những người nghèo mới hôm nay».118
Tôn trọng bản tính giáo hội của các tài sản. Các tài sản của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ là tài sản giáo hội (can. 634 §1) nhằm để theo đuổi những mục tiêu riêng của Giáo Hội (can. 1254). Do đó, khi sử dụng chúng, các Tu Hội được kêu gọi bảo vệ bản tính giáo hội và tuân giữ những quy tắc giáo luật liên quan.
Sự lâu bền của các công cuộc. Các công cuộc của các Tu Hội không xa lạ với bối cảnh xã hội và kinh tế trong đó nó hoạt động. Vì thế một công cuộc thì lâu bền khi nó giữ được một sự quân bình kinh tế chính đáng và dùng đến theo cách thức phù hợp các nguồn lực hiện có. Sự cần thiết phải báo cáo. Báo cáo là một thái độ muốn chia sẻ về các chọn lựa, các công việc và các kết quả. Sự tự lập chính đáng của các Tu Hội đi đôi với trách nhiệm trong các chọn lựa về điều hành quản trị và trong các cách thức thực hiện chúng, bằng việc báo cáo theo như những gì được ấn định trong luật phổ quát và luật riêng.
52. Trong các tình huống cụ thể, các tiêu chuẩn phân định đi theo với tính chuyên biệt và các truyền thống lành mạnh của mỗi Tu Hội, và tính biệt loại của hoàn cảnh pháp lý xã hội tương ứng.
Các chiều kích và cơ cấu tổ chức, bản tính của các hoạt động được thực hiện, phạm vi lãnh thổ hoạt động, các quy tắc pháp lý có thể áp dụng và các thể thức tương quan giữa Nhà nước và Giáo Hội là những yếu tố, đôi khi rất ý nghĩa, phân biệt từng Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ với nhau. Vì thế, cần lưu tâm đến những khác biệt đó, để không phương hại tới các tiêu chuẩn căn bản, nhưng giúp cho các tiêu chuẩn ấy mang lấy tính cách lịch sử trong những tình huống khác nhau.
53. Với một quan tâm riêng đối với việc điều hành quản trị tài sản, nên các cơ cấu tổ chức của các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ có một tầm quan trọng đặc biệt. Thật vậy, nếu các tài sản giúp vận hành cho đời sống của cộng đoàn, được các Tu Hội sở hữu một cách có trật tự, đối chiếu với các công cuộc thì các mô hình cũng rất khác biệt nhau. Điều này thường được biện minh bởi những mẫu thức tương quan khác nhau giữa Nhà nước và Giáo Hội, bởi tính biệt loại của lãnh vực hoạt động, bởi các chiều kích của hoạt động. Như thế, đang khi trong một số trường hợp các công cuộc là sở hữu của các Tu Hội đời sống thánh hiến và các Tu Đoàn đời sống tông đồ, thì ở nơi khác các Tu Hội này hoạt động đang khi sử dụng những cơ sở pháp lý khác nhau, thường được tổ chức theo hình thức quỹ hay hội.
54. Cũng không bao giờ được coi thường việc áp dụng luật dân sự có liên quan đến từng Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ, cũng như các Tỉnh Dòng hay những phần của Tu Hội được coi tương đương với Tỉnh Dòng (x. can. 620). Việc giáo luật dẫn chiếu về các luật dân sự liên quan đến các hợp đồng (can. 1290), và chưa hết, cả việc nại tới phương thức hiệp ước giữa Nhà nước và Giáo Hội, làm tăng cường việc tuân giữ luật dân sự với cùng những hiệu quả trong giáo luật (can. 22)
Sự cần thiết phải giữ những tiêu chuẩn nền tảng và sự đòi hỏi phải xét đến những đặc tính chuyên biệt gợi lên những chỉ dẫn hành động một phần có tính bao quát chung, một phần có tính riêng biệt, như thế làm cho tôn trọng những đặc tính riêng của bối cảnh và các người thụ hưởng.
Sự cai quản về kinh tế
55. Luật phổ quát và luật riêng.
Các tài sản vật chất của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu Đoàn đời sống tông đồ, xét vì là tài sản của Giáo Hội, chúng được điều hành bởi các quy định của quyển V của Bộ Giáo luật Tài sản vật chất của Giáo Hội, trừ khi luật đã minh nhiên dự liệu cách khác (x. can. 635 §1). Ngoài quyển V của Bộ Giáo Luật, việc quản lý tài sản vật chất đối với các Hội Dòng còn được điều hành bởi các cann. 634-640, đối với các Tu Hội Đời là can. 718, và đối với các Tu Đoàn đời sống tông đồ là can. 741. Mối Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ phải ấn định những quy tắc liên quan đến sử dụng và quản lý các tài sản (x. can. 635).
56. Đức Giáo Hoàng Roma
«Đức Giáo Hoàng Roma, do quyền cai quản tối thượng, là người quản trị tối cao và là người phân phát tất cả các tài sản giáo hội» (can. 1273) và ngài thực thi trên các tài sản ấy quyền tài phán riêng của ngài với tính cách quyền bính tối thượng của Giáo Hội. Quyền can thiệp ấy có nền tảng không phải vì ngài có quyền sở hữu các tài sản giáo hội, nhưng thuộc về chức năng chu cấp của Đức Giáo Hoàng trong việc cai quản tối cao đối với Giáo Hội119.
__________________
Chú Thích
1- x. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, lá thư. Iuvenescit Ecclesia về tương quan giữa các tặng ân phẩm trật và tặng ân đặc sủng đối với sự sống và sữ mệnh của Giáo Hội (Roma 15.05.2016), 4.
2- HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Toát yếu Học thuyết Xã Hội của Giáo Hội, (Roma 2/4/2004),§ 164.
3- PHANXICÔ, tông thư Tự sắc Fidelis dispensator et prudens về việc thành lập một cấu trúc mới phối hợp các vụ kinh tế và quản lý của Tò Thánh và Nhà nước thành phố Vatican (24/2/2014), chữ mở đầu.
4- BENEDICTO XVI, thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), 21.
5- BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Việc điều hành các tài sản của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ để phục vụ con người và phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội, Công báo của Hội nghị quôc tế (Roma 6-9/3/2014) LEV, Città del Vaticano 2014.
6- BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014).
7- Như trên (=nt), 6.
8- Nt.
9- PHANXICÔ, Thông điệp gởi các tham dự viên Hội Nghị quốc tế về đề tài: Việc điều hành quản trị các tài sản của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ để phục vụ con người và phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội, Công báo của Hội nghị quôc tế (Roma 8/3/2014).
10- PHANXICÔ, Bài giảng thánh lễ với các Giám Mục, linh mục, tu sĩ, dịp Tông Du Sri Lanka và Philippin, manila (16/1/2015).
11- GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996),18.
12- Nt, 23; x. Pl 2,5-11.
13- GIOAN PHALO II, Tông huấn. Redemptionis donum (25 marzo 1984), 12
14- GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996),21.
15- PHANXICÔ, Thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), 222.
16- Nt, 223.
17- GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996),90.
18- BENEDICTO XVI, Thông điệp Spe Salvi (30/11/2007), 8.
19- x. GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996), 89.
20- x. PHANXICÔ, Diễn từ cho các tham dự viên ngày dành cho các đại diện giáo hoàng (Roma21/6/2013).
21- J.M. BERGOGLIO, Chỉ tình yêu mới cứu độ chúng ta, LEV, Città del Vaticano 2013,113.
22- PHANXICÔ, Diễn từ cho các tham dự viên về truyền thông dei media,(Roma 15/3/2013; PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii gaudium (24/11/2013),198.
23- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 198.
24- PHANXICÔ, ngỏ lời dịp canh thức Hiện Xuống với các phong trào, các cộng đoàn mới, các hiệp hội, các hợp đoàn giáo hội (Roma 18.5/2014).
25- PHANXICÔ, Sứ điệp ngày thế giới người nghèo lần thứ I, (Roma 13/6/2017), 3.
26- PHANXICÔ, Diễn từ cho các sinh viên của các trường Dòng Tên ở Ý và Albania (Roma 7/6/2013).
27- PHANXICÔ, diễn từ dịp thăm viếng trung tâm “Astalli” phục vụ những người tị nạn, (Roma 10.11.2013).
28- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 207.
29- CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Hiến chế mục vụ, về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes, 63.
30- BENEDICTO XVI, thông điệp Caritas in veri tate (29/6/2009), 25.
31- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 55.
32- x. nt, 53 e tt.
33- nt, 53.
34- x. BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014), 3.
35- PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
36- x. PHANXICÔ, Bài giảng lễ nhân dịp lễ Đức Mẹ Dâng Chúa, ngày thế giới đời sống thánh hiến lần XXI (Roma 2/2/2017).
37- x. PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 273.
38- PHANXICÔ, Thông điệp gởi các tham dự viên Hội Nghị quốc tế về đề tài: Việc điều hành quản trị các tài sản của các Tu Hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ để phục vụ con người và phục vụ sứ mệnh của Giáo Hội, Công báo của Hội nghị quôc tế (Roma 8/3/2014).
39- x. nt.
40- x. PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
41- BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Định hướng. Rượu mới phải có bầu da mới. Từ Công Đồng Vaticanô II, đời sống thánh hiến và các thách đố còn đang mở (Roma 6/1/2017), 28.
42- CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Hiến chế mục vụ, về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes, 76.
43- x. PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
44- PHANXICÔ, thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), 187.
45- x. PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
46- PHANXICÔ, tông thư gởi tất cả các người thánh hiến nhân dịp Năm Đời Sống thánh hiến (Roma 23/11/2014), 2.
47- x. BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014), 9,1.1
48- BENEDICTO XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), 37.
49- PHANXICÔ, thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), 16.
50- PHAOLO VI, Thông điệp Populorum progressio (26/3/1967), 20.
51- BENEDICTO XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), 34
52- nt.
53- x. BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, lá thư. Iuvenescit Ecclesia về tương quan giữa các tặng ân phẩm trật và tặng ân đặc sủng đối với sự sống và sứ mệnh của Giáo Hội (Roma 15.05.2016), 15.
54- PHANXICÔ, Diễn từ cho các tham dự viên cuộc họp về “Kinh tế và hiệp thông”, do phong trào Focolar tổ chức (Roma 4/2/2017)
55- PHANXICÔ, thông điệp Laudato si’ (24/5/ 2015), 112.
56- nt, 219.
57- x. nt, 220.
58- PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
59- x. BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014), 3.
60- . x. nt, 5.
61- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 30.
62- A. SPADARO, “Hãy đánh thức thế giới!”. Cuộc nói chuyển của Đức thánh cha Phanxicô với các Bề Trên Tổng Quyền, trong : La Civiltà Cattolica, 165 (2014/1), 5.
63- HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Toát yếu Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, (Roma 2.4.2004),540.
64- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 214.
65- x. BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, Hướng dẫn về đào tạo trong các Hội Dòng , (Roma 2/2/1990), 17.
66- PHANXICÔ, tông thư gởi tất cả các người thánh hiến nhân dịp Năm Đời Sống thánh hiến (Roma 23/11/2014), 2.
67- HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Về sự cải cách hệ thống tài chánh và tiền tệ quốc tế trong viễn cảnh của một “ quyền bính công có thẩm quyền hoàn vũ”(Roma 24/10/2011).
68- GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrate (25/3/1996), 27.
69- x. nt.
70- BENEDICTO XVI, thông điệp Spe Salvi (30/11/2007), 7.
71- x. GIOAN PHAOLO II, Es. Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrate (25/3/1996), 27.
72- BENEDICTO XVI, thông điệp Spe Salvi (30/11/2007), 9.
73- x. PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 130 và note.
74- x. PHANXICÔ, Diễn từ cho Bộ Giám Mục (Roma 27/2/2014), 1.
75- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 155.
76- nt, 27.
77- GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996), 63.
78- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 130.
79- nt.
80- x. nt, 130-131.
81- BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014), 16,2.1.
82- x. THÁNH BỘ TU SĨ VÀ CÁC TU HỘI ĐỜI – THÁNH BỘ GIÁM MỤC, Những tiêu chuẩn hướng dẫn tương quan giữa các Giám mục và các Tu sĩ trong Giáo Hội Mutuae Relationes (Roma 14/5/1978), 18.
83- PHANXICÔ, Diễn từ cho các tham dự viên Hội nghị quốc tế cho các Đại diện Giám Mục và Ủy viên về đời sống thánh hiến (Roma 28/10/2016), 1; Bộ Giáo Lý Đức Tin, lá thư Iuvenescit Ecclesia về tương quan giữa các tặng ân phẩm trật và tặng ân đặc sủng đối với sự sống và sứ mệnh của Giáo Hội (Roma 15.05.2016), 10.
84- GIOAN PHALO II, Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996),22.
85- PHANXICÔ, Diễn từ cho các tham dự viên Hội nghị quốc tế cho các Đại diện Giám Mục và Ủy viên về đời sống thánh hiến (Roma 28/10/2016), 1.
86- PHANXICÔ, Thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), 228.
87- Nt, 229.
88- PHANXICÔ, Diễn từ cho các nhà thầu họp ở Confindustria (Roma 27/2/2016).
89- PHANXICÔ, tông thư gởi tất cả các người thánh hiến nhân dịp Năm Đời Sống thánh hiến (Roma 23/11/2014), 2
90- PHANXICÔ, thông điệp Laudato si’ (24/5/2015), 13.
91- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 33.
92- PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
93- BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014), 8, 1.1.
94- Nt.
95- x. PHANXICÔ, tông thư Evangelii gaudium (24/11/2013), 203.
96- x. nt, 91.
97- x. GIOAN PHAOLO II, Es. Tông huấn hậu thượng Hội Đồng Vita consecrata (25/3/1996),4;72
98- HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Toát yếu Học thuyết Xã hội của Giáo Hội, (Roma 2.4.2004),167.
99- x. BỘ CÁC TU HỘI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ TU ĐOÀN ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, thư luân lưu. Những đường hướng về việc điều hành quản trịn tài sản trong cac Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 2/8/2014), 10, 1.2.
100- HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Ghi nhận của Tòa Thánh về tài chính và phát triển, trong buổi canh thức của Hội nghị được tổ chức do Hội Nghị khoáng đại của Liên Hiệp Quốc tại Dohah (18/11/2008), 3c.
101- Cf. ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ TÀI SẢN VĂN HÓA CỦA GIÁO HỘI, Chức năng mục vụ của Văn Khố giáo hội, (2/2/1997).
102- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 221.
103- nt, 225.
104- PHANXICÔ, Diễn từ cho các linh mục và người thánh hiến dịp thăm viếng mục vụ Milanô (Milano 25/3/2017).
105- Nt.
106- PHANXICÔ, thông điệp Lumen fidei (29/6/2013), 57.
107- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 231-233.
108- PHANXICÔ, Diễn từ cho các linh mục và người thánh hiến dịp thăm viếng mục vụ Milanô (Milano 25/3/2017).
109- Nt, 234-237.
110- PHANXICÔ, Diễn từ cho các linh mục và người thánh hiến dịp thăm viếng mục vụ Milanô (Milano 25/3/2017).
111- PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii gaudium (24/11/2013), 223-230.
112- PHANXICÔ, diễn từ cho các tham dự viên Hội nghị thế giơia lần thứ III của các phong trào giáo hội và các cộng đoàn mới (Roma 22/11/2014).
113- PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
114- PHANXICÔ, Diễn từ dịp canh thức cầu nguyện chuẩn bị cho Thượng Hội Đồng về gia đình (Roma 4/10/2014).
115- PHANXICÔ, sứ điệp gởi các tham dự viên Hội nghị quốc tế lần thứ hai về đề tài: “ Trong sự trung thành với đặc sủng, tái suy tư về kinh tế của các Tu hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn đời sống tông đồ (Roma 25/11/2016).
116- Nt.
117- Nt.
118- Nt.
119- x. HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ BẢN VĂN PHÁP LÝ, Chức năng của thẩm quyền giáo hội trên các tài sản của Giáo hội (12/2/2004), trong Communicationes 36 (2004), 24-32.