TÍNH TÂM KHAI ĐẠO VỀ TU HỘI ĐÒI

Thứ tư - 30/07/2025 23:25
Tính Tâm khai đạo về Tu Hội Đời
Tài liệu 1
Tĩnh Tâm Khai Đạo Về Tu Hội Đời

BÀI 1
ƠN THIÊN TRIỆU

1. Ơn Chúa có nhiều hình thức:
Ơn Chúa kêu gọi trong Hội Thánh từ xưa nay có rất nhiều hình thức, không có ai giống ai, Thánh Phaolô đã nói rằng: "Không phải mọi người đều là tiên tri, cũng không phải mọi người đều là tiến sĩ, cũng không phải mọi người đều là tông đồ, cũng không phải mọi người đều là tử đạo. Ví như mỗi ngôi sao có một vẻ sáng khác nhau trong Hội Thánh, Chúa chọn chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tựu trung lại là tình Chúa yêu thương chúng ta. Khi Chúa chọn chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau, chúng ta nhận thấy rằng tình Chúa yêu thương hết mọi người thật là tình yêu mầu nhiệm, tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Và điều này làm cho chúng ta nhận thấy cái gì? Ơn Thánh Chúa rất phong phú đồi dào đối với các tâm hồn. Từ xưa đến nay không biết bao nhiêu tiên tri, không biết bao nhiêu vị thánh có mỗi cách khác nhau, nhưng đều là những bậc thánh cả. Ông bà chúng ta từ xưa đã nói một cách nôm na rằng: “mỗi thánh mỗi thể”. Ai cũng khác nhau, nóng nảy như Thánh Phêrô nhưng Chúa cũng cho là Thánh. Điều này chứng tỏ Chúa tôn trọng sự tự do của con người một cách rất tế nhị: Chúa không buộc ai, Chúa để cho chúng ta có quyền lựa chọn, chúng ta muốn chọn cách nào mặc chúng ta, nhưng ơn Chúa không bao giờ thiếu đối với chúng ta. Chúa sẵn sàng ban ơn cho chúng ta, cho nên ai cũng có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa. Không có ai nói được rằng trong chương trình Chúa không có tên tôi. Ở trong Hội thánh không có ai sợ thất nghiệp cả. Ai cũng có việc làm và ai cũng có nhiệm vụ trong chương trình của Chúa. Điều này chúng ta thấy trong Thánh kinh Chúa đã chọn bà Mađalêna tội lỗi, bà Salômê ít học, bà Mattha hăng say làm bếp, giúp việc, hoạt động cho các Thánh tông đồ. Chúa đã chọn ông thánh Matthêô la người thu thuế, có lẽ không trong sạch bao nhiêu, đã tham nhũng ít nhiều. Nhưng nhờ đó đã sửa đổi cuộc đời. Chúa đã chọn Phêrô chỉ là người chài lưới. Chúa đã chọn Luca làm một bác sĩ, mỗi người đều có mỗi nghề khác nhau, nhưng Chúa đều chọn hết cả. Rồi chúng ta thấy trong lịch sử Hội Thánh, Chúa đã chọn Luis là Hoàng Đế mà cũng nên thánh được. Chúa chọn ông Benoit Labre ăn mày, ăn mày cũng làm thánh. Chúa chọn bà thánh Elizabeth Hoàng Hậu cũng làm thánh, nên không có bậc nào, không có khung cảnh nào, không tạo ra vị thánh được. Ai cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa. Phúc âm lại nói rằng: “Chúa chọn bất cứ giờ nào”. Dụ ngôn người chủ và thợ làm vườn nho đã nói lên điều đó. Có người Chúa kêu lúc chín giờ sáng, có người Chúa kêu lúc mười hai giờ trưa. Có người Chúa kêu lúc ba giờ chiều. Người nào Chúa cũng kêu hết đến tối họ đợi xem thử chủ nhà phát lương làm sao ? Ta thấy lòng quảng đại của Chúa, dẫu mà chọn vào lúc ba giờ chiều Chúa cũng sẵn sàng cho lương như chín giờ mai. Nghĩa là thời giờ và cuộc đời của chúng ta không bao giờ trễ đối với Thiên Chúa khi chúng ta có lòng yêu thương Chúa thật và chúng ta đáp trả lại tiếng Chúa gọi.

II. Công đồng Vatican II

Công đồng Vatican II nhắc cho chúng ta một câu: “Mỗi đời sống là một sứ mạng” (GS 15). Chúng ta có một đời, ai trong chúng ta đều có một đời sống cả, nhưng có khi mãi đên bây giờ chúng ta đã hai mươi tuổi, ba mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi tuổi chúng ta đã ý thức được điều đó chưa ? Mỗi một đời người là một sứ mạng. Có khi chúng ta đã sống cho đến hôm nay mà chưa nghĩ đến rằng, tôi có một sứ mạng. Nếu như tôi không nghĩ rằng tôi có một sứ mạng thì có lẽ chúng ta đang ngủ mà mà chưa thức tỉnh vì chúng ta chưa thấy sứ mạng của chúng ta. Ngược lại ai trong chúng ta mà ý thức được điều đó thì chúng ta sẽ hãnh diện, chúng ta sẽ sung sướng, đồng thời chúng ta tự bảo: tôi có một sứ mạng mà Chúa trao cho tôi. Nhưng sử mạng của tôi ở đâu ? tôi phải làm gì ? tôi đã nhận ra sứ mạng của tôi chưa ? Mỗi một đời người là một sứ mạng. Tôi có sứ mạng nào. Chúa trao mà tôi đã nhận chưa ?

III. Xưa nay trong Hội Thánh có những hình thức nào?
Nói thực tế để anh chị em lãnh hội một cách dễ dàng. Anh chị em cứ giở kinh cầu Các Thánh ra, rồi biết trong Hội Thánh có những hình thức nào để nên thánh. Chúng ta đọc kinh cầu thì trước hết về Đức Chúa Trời Ba Ngôi: không ai với tới. Thánh Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trình không ai đạt tới được. Đức Thánh Micae, Raphae cũng chịu luôn.
Các thánh tổ tông: mình sinh bây giờ thì đành chịu.
Các thánh tiên tri: cũng chịu luôn.
Các thánh tông đồ: chỉ mười hai ông thôi.
Các thánh tử đạo: nghĩ không biết có được không? Mới nghe bắt đạo là đã tổ chức xuống đường.
Các thánh hiền tu: không biết tu có đắc đạo không ?
Các thánh ẩn tu: không xong, đời bây giờ không thấy bao nhiêu, may ra đếm trên đầu ngón tay. Các thánh tiến sĩ coi bộ cũng chịu luôn, là những thánh đã dạy những lý thuyết cao siêu đã viết nhiều sách vở về thần học, về Chúa, thì mình làm gì mà được chuyện đó. Phụ nữ được hai bà: Têrêsa mẹ và Catarina. Đàn ông được một số: Augustinô, Hiêrônimô, Thomas, dòng Phaxinicô có thánh Antôn được phong tiến sĩ nhờ giảng thuyết cái lưỡi không bị thối nát.
Các Thánh đồng trinh cùng các thánh thủ tiết. Cuối cùng hết thì thấy trong số các thánh đó không thấy có bồn đạo lọt vào chỗ nào được, ẩn tu, hiền tu, đồng trinh lọt ngả nào.
Giáo luật chia ra ba bậc: Giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân.
Giáo sĩ là những người có chức trong Hội Thánh.
Tu sĩ là những người cùng sống chung trong một dòng, và có lời khấn: khó nghèo, vâng lời và trinh khiết.
Giáo dân trong giáo luật định nghĩa là những người không phải là giáo sĩ, tu sĩ.

IV. Quan niệm về sự trọn lành
Giáo dân chúng ta thường nghĩ rằng sự trọn lành chỉ có thể có ở trong nhà tu. Và từ xưa đến nay người ta đã quan niệm đời tu như thế nào ?
1/ Từ đời các thánh Tông đồ đến thế kỉ thứ 17
Đời ấy, các dòng tu nào được lập ra thì chỉ có: khổ tu và ẩn tu, hai loại chính trong 17 thế kỉ đầu, nên chúng ta thấy các dòng lớn là Bênêđictô từ thế kỉ thứ tư do thánh Benoit, rồi tiếp theo là Xitô do thánh Benađô, rồi đến hai thánh Đôminicô và Phanxicô đều lập dòng khổ tu. Kiểu ăn mặc giống như nhau, chỉ khác màu áo để phân biệt những dòng khác nhau. Có khăn trùm lên đầu, cũng có thắt lưng, xâu chuỗi, có tay áo rộng, hai tấm trước sau. Dòng Bênêđictô màu áo đen, Xitô áo trắng hai vạt đen, Dòng Đôminicô áo trắng, Phanxicô nâu. Bốn dòng cả trong Hội Thánh là khổ tu.
Khổ tu bằng ba cách này:
a/ Ăn chay: Suốt Mùa chay và Mùa vọng.
b/ Đánh tội: Ngày thứ sáu lấy roi đánh trên lưng mình.
c/ Thinh lặng: Cũng trong mùa chay thì thinh lặng, chỉ ra dấu thôi.
d/ Thức đêm: Một giờ khuya đánh chuông dậy đọc kinh.
Ngày xưa như vậy là khổ tu.
Loại dòng thứ hai trong các thế kỷ đầu: là ẩn tu. Thường các thánh ẩn tu như thánh Phaolô, thánh Antôn tu rừng, không lên núi thì ở nhà kín. Cuối cùng nếu không được như vậy thì ở chung với nhau, nhưng đóng kín được chừng nào hay chừng dó. Có chỗ nội cấm. Tiếng Việt Nam rõ ràng là nhà kín.

2/ Thế kỉ 17: Dòng Bác Ái Vinh Sơn.
Đến thế kỷ 17 không có người lo việc giảng đạo. Hỗ khấn xong là không được ra khỏi Dòng, nên hai thánh Phanxicô Salêsiô và thánh Vincente bàn với nhau lập ra các dòng bà Vinh Sơn và họ phải ra đi giảng đạo làm việc bác ái. Và để các bà đi ra ngoài được thì thánh nhân không cho khẩn, chỉ cho mặc áo dòng và cho hứa từng năm một. Như vậy mặc áo dòng nhưng không phải là dòng: Các bà Bác ái... Les dames de la Chrité. Thánh Vicentê đã thành công để các bà đi ra ngoài được. Đó là một sự thay đổi mà 17 thế kỷ đầu không có. Còn thánh Phanxicô Salêsiô thì lập dòng Đức Bà đi viếng Visitandi lo đi thăm viếng. Dòng cũng có ba lời khấn, nhưng khấn xong thì không đi ra được nữa, vì theo luật Hội Thánh thời đó. Dòng đi viếng mà không đi viếng được phải ở nhà.
Tiếp theo đó là các dòng khác được thành lập và được đi ra ngoài như chúng ta đã thấy. Thế kỷ thứ 19 chúng ta thấy Chúa quan phòng một cách đặc biệt. Trong thời cách mạng Pháp, linh mục và các dòng tu bị tận diệt, không còn nhà Dòng, không còn linh mục, nhưng khi hết thời cách mạng thì Chúa cho có nhiều ơn gọi, nhiều dòng tu mọc lên. Các Dòng tu lớn bây giờ là bắt đầu từ thế kỷ 19.

3/ Giáo dân muốn nên trọn lành thì phải làm gì ?
Theo quan niệm thời trước, giáo dân muốn nên trọn lành thì phải vào dòng ba, khấn ba điều. Vào dòng ba chết thì lại được mặc áo dòng vào. Nhưng sự thật cũng nhờ đó mà giáo dân nên thánh không phải ít. Nhưng giờ đây, tới một giai đoạn mới, Hội Thánh xếp đặt một cách khác: nếu không vào Chủng viện từ hồi nhỏ, thì lớn tuổi rồi vào chủng viện một ít năm thì cũng làm linh mục được. Tờ báo Universe chụp hình hai người mặt giống nhau, người tóc bạc, người tóc đen: người con đã làm linh mục được mười bốn năm rồi, dự lễ phong chức linh mục của ông cha.
Khi vợ chết rồi, ông vào tu, trong vòng bốn năm ông làm linh mục, ông là quan tư cai tàu, nên lính thuỷ đi dự lễ rất đông, cũng như ông có rất nhiều cháu nội, cháu ngoại đi dự lễ. Hội thánh sắp xếp mỗi một thời đại có những biến chuyển mà không thiệt hại gì ? Giờ đây bồn đạo phải làm nhiều việc ở trần gian cần có Chúa. Người đi tu cũng cần, mà người ở thế gian cũng cần. Nhưng có nhiều ở giữa thế gian làm người bồn đạo, không đi tu được vì sức khoẻ, vì hoàn cảnh, vì nhiều công việc khác. Họ tự hỏi rằng tôi không đi tu được mà muốn đi đàng trọn lành, muốn nên thánh, muốn tận hiến cho Chúa, tôi có chỗ đứng nào trong Hội Thánh chăng ? Một giáo dân không tu sĩ, không giáo sĩ, có bậc nào cho giáo dân tin tưởng rằng mình có chỗ đứng mà vì một lý do nào đó mình không ở trong cộng đoàn của nhà tu được, chẳng hạn vì sức khoẻ, vì gánh nặng gia đình, hoặc vì cuộc sống chung mình không hợp. Một linh mục triều muốn có một cuộc sống như linh mục dòng, muốn có một đời sống trọn lành, sốt sắng vững vàng, có các anh em giúp nhau. Thử hỏi Hội Thánh đã có giải pháp nào đối với người giáo dân và linh mục triều đó. Chúng ta hãy đọc sắc chỉ "Hội Thánh Mẹ quan phòng" (Provida Mater Ecclesia) của Đức Giáo Hoàng Pio XII ra năm 1947. Ngài đã xác định: những linh mục triều có thể vẫn làm linh mục triều mà lập nên những tu hội. Những linh mục làm linh mục triều mà vẫn khấn. Một đàng linh mục ấy vẫn sống giữa đời mà vẫn giữ luật nhiệm nhặt hơn những linh mục dòng, sống khắc khổ hơn những linh mục dòng: phải kiểm soát tiền bạc, phải có người phụ trách coi cuộc sống của mình và có những người viếng thăm nâng đỡ, kiểm soát cuộc đời của mình chặt chẽ hơn nữa. Và đối với giáo dân có thể sống chung, có thể không sống chung, ở gia đình mà vẫn khấn hứa với Chúa được và trở nên những người ở những tu hội gọi là tu hội triều hay thể viện, nghĩa là một viện tu mà ở giữa thế gian. Những người ấy có thể lãnh một sứ mạng của Chúa công khai thực sự mà vẫn sống giữa thế gian vì không thuận tiện để hưởng một đời sống tu trì. Đức Giáo Hoàng dùng một tiếng để xác định cuộc sống ở trần gian đó mà trong một tu hội đó một tiếng như thế này: Giữa đời và nhờ đời (Dans le monde et à partir du monde). Ngược lại các Dòng khổ tu nghĩa là xa thế gian thì bên này nói giữa trần thế. Tu ở giữa trần thế: không có nhà dòng, không có tường để mà che, không có chi giữ cửa, không có gì hết: tu ở giữa trần thế. Giữa trần thế và nhờ trần thế (à partir du monde) nghĩa là nên thánh qua những việc ở đời. Nên thánh vì làm cảnh sát, nên thánh vì làm giáo sư, nên thánh vì đi buôn bản, nên thánh vì làm y tá, nên thánh vì đi quét đường. Vì những công việc trần gian mà nhờ đó để nên thánh, nên trong buổi nói chuyện cho anh chị em lịch sử xưa nay trong Giáo Hội và thấy rằng ơn thiên triệu, Chúa chọn cách nào. Mỗi người trong chúng ta đều có một sứ mạng.

Từ hôm nay tất cả anh chị em tự hỏi sứ mạng của tôi là ở đâu ? Chúa muốn cho tôi làm cái gì ? Làm cách nào để cho tôi có một cuộc đời tốt đẹp ? Làm cách nào để cuộc đời của tôi không oan uổng ? Tôi không bao giờ hối hận về cuộc đời của tôi ?


*****
BÀI 2
TU HỘI

Thưa các anh các chị,
Hôm qua chúng ta đã nói rằng, chúng ta tìm thánh ý Chúa và tìm một chỗ đứng của chúng ta ở trong thế giới ngày nay cũng như trong Giáo hội. Ngoài các bậc giáo sĩ, tu sĩ thì người giáo dân ở giữa thế gian còn được Hội Thánh trong giai đoạn mới này lập nên những tu hội để cho người thế gian, tuy ở giữa thế gian mà cũng có thể tu được. Vậy sáng mai nay tôi trình bày đề tài sau đây: các tu hội nghĩa là gì ? để anh chị em thấy rõ ràng từng điểm một. Với tính cách không phải là một bài giảng nhưng là trình bày cách nào đó để cho anh chị em có thể thấu hiểu được tinh thần cũng như tổ chức tu hội như thế nào ?

I. Tu hội là gì ?
Theo định nghĩa của Đức Thánh Cha Piô XII trong Tông Hiến "Provida Mater Ecclesia" ngày 02/02/1947 thì Tu hội là: “hội giáo sĩ hay giáo dân, được hàng giáo phẩm công nhận là bậc trọn lành trong Hội Thánh".
Là Tu hội giáo sĩ hay giáo dân, có nghĩa là giáo sĩ hay giáo dân có thể ở trong một Tu hội. Được hàng giáo phẩm công nhận, bởi vì một Tu hội hay một Tu viện đều phải được hàng giáo phẩm công nhận, nếu không được công nhận thì không bảo đảm được sự sống của một tu hội. Sau khi đã xem xét kỹ càng rồi mới bảo đảm được, nên khi thấy chưa bảo đảm thì không nên công nhận. Việc được công nhận cần thiết và vì lý do đó nên Hội Thánh dạy phải kỹ càng khi xét phải công nhận một Tu hội.
Là bậc trọn lành trong Hội Thánh có nghĩa là khi đã tu là kiếm tìm sự trọn lành chứ không phải là như một hội buôn bán đồ mỹ thì không gọi là bậc trọn lành nữa. Không tiến đến bậc trọn lành là không phải tu, nên chỉ là bậc trọn lành trong Hội Thánh và được Hội Thánh công nhận thì mới là tu. Còn nếu như một hội lập ra để đánh hụi, đánh số đề thì không phải là bậc trọn lành trong Hội Thánh.

II. Mục đích Tu hội là gì ?
Mục đích của Tu hội là để hoạt động tông đồ giữa trần gian cho có hiệu quả hơn. Các dòng tu thì để nên thánh, cứu linh hồn người ta. Một Tu hội ở đời có mục đích đặc biệt hơn là hoạt động tông đồ giữa trần gian chứ không phải tu ở trong nhà dòng. Hoạt động tông đồ giữa trần gian do ơn Chúa ban nên có kết quả tốt. Nhưng khi ở trong một Tu hội, có tổ chức thì càng có hiệu quả hơn. Không có ai tổ chức, không có ai coi sóc thì không có hiệu quả hay mình làm một thời gian rồi mình lại nghỉ. Nên khi mình làm việc cả đời có tổ chức, có góp ý kiến, có giúp đỡ nhau thì có hiệu quả hơn.
III. Việc tông đồ của tu hội đời như thế nào ?
Đức Thánh Cha Piô XII đã vạch ra trong một tự sắc "Primo Feliciter" ngày 12/3/1948. Ngài bảo việc tông đồ của tu hội là việc tông đồ đặc biệt. Thứ đến việc tông đồ là việc giữa đời hay giữa trần thế và nhờ trần thế. Sau khi ra Tông Hiến “Provida Mater Ecclesia - Hội Thánh Mẹ Quan Phòng" được một năm, nhiều kết quả đã được trông thấy, mọi người đều sung sướng vui mừng, do đó có Tự Sắc Primo Feliciter. Từ đó đến nay là hai mươi bốn năm chúng ta mới nghe lần đầu tiên, Ngài giải thích:
1/ Việc tông đồ thì đặc biệt:
Thường bổn đạo nghĩ rằng việc tông đồ là của hàng giáo sĩ, của các người đi tu, còn ai đang ở trần thế thì không có làm việc tông đồ, chỉ góp tiền và cầu nguyện. Nếu có làm việc tông đồ chăng nữa thì không phải là do một sự uỷ nhiệm riêng của Hội Thánh: ai muốn làm thì làm mà không có sự uỷ nhiệm, không làm như là người công khai của Hội Thánh.
2/ Giữa trần thế và nhờ trần thế:
(Dans le monde et à partir du monde hay nói cách khác dans le monde et avec les moyens du monde). Thí dụ một Cha dòng Thiên An, nếu ai tới thì ngài ra thuyết một bài, một cha dòng Cứu Thế thì ngày thứ bảy giảng một bài về Đức Mẹ hay các cha đi làm tuần đại phúc. Còn bây giờ, tu hội thì làm sao ? Hoạt động giữa trần thế nghĩa là không đưa về nhà thờ mà giảng, cũng không tổ chức giảng, nhưng mà giảng giữa chợ búa vậy. Giảng bằng chính cuộc sống của mình nên gọi là giữa trần thế. Tông đồ của bún bò, bán vải; đó là tông đồ giữa trần thế. Trong khi đó từ lâu nay các linh mục chỉ làm việc tông đồ ở nhà thờ mà chưa làm việc tông đồ. Giữa trần thế và nhờ trân thế, nhờ những phương tiện sẵn có của trần thế mà làm việc tông đồ, lợi dụng nơi văn phòng, ở trường học cũng như nơi chợ búa mà giảng, đến trường học cũng như đến nhà thờ vậy. Sống ở công sở cũng như đi buôn bán hay lam lũ nơi đồng ruộng, ta luôn luôn làm tông đồ; viết một bài báo, bán một tô bún, cho thuê bida... mình lợi dụng tất cả để làm việc tông đồ mà không cần tốn đồng xu nào. Đó là việc tông đồ đặc biệt của tu hội.
Tới đâu thì ở đó cũng chịu ảnh hưởng của tôi: sống dịu dàng, dễ thương, ăn nói lịch sự, tiếp đón nồng hậu, bác ái để giảng đạo. Lợi dụng mọi hoàn cảnh. Thí dụ ông cha đi xe đò, không biết ông khéo léo thế nào mà ai cũng nói chuyện với ông: ông đọc sách cũng như đọc báo ngược, đọc và đọc rất say mê, nên chỉ những người trên xe ai cũng coi và cho là lạ cả họ tò mò nhìn ông cha đọc bảo ngược, nhìn xem ông đọc làm sao ? té ra ông để cái bìa ngược, còn bên trong ông để xuôi, ông chơi nghịch vậy để gợi tò mò người khác, khi họ đã nhìn ông đông thì ông xếp báo lại và vui vẻ nói chuyện với họ. Thành thử ông đã biết lợi dụng chuyến xe đò để gợi chuyện và để làm tông đồ. Một lần khác, ông cũng đi xe, nhưng thay vì đọc báo ngược ông lại cầm theo cuốn sách, bên trong để một số tượng ảnh, không hiểu ông làm sao mà các chiếc ảnh cử rơi mãi, họ phải lượm dùm cho ông, ông cảm ơn họ tử tế, cảm ơn rồi ông tặng luôn bức ảnh và nói: "thôi tôi tặng vì tôi có nhiều lắm” khi được thì ai cũng vui, đạo cũng vui mà ngoại cũng vui, không lấy thờ thì lấy cho mấy thằng nhỏ, như vậy ông chuyện vẫn được với họ, mọi người đều nghe ông nói chuyện. Luôn luôn biết lợi dụng những cái mà người khác không thể ngờ.
Anh em có nghe chuyện cha Latbétière ở Ba lê không. Khi ngài biết người ta bị đói khát lạnh lẽo, từ ngôi nhà nhỏ của ngài, ngài gọi điện thoại đến hết mọi người, nơi thì xin đôi giày, chỗ khác xin chiếc áo rách, xin người này gói cà phê, người khác xin đôi tất ... những người cho xách đồ tới, thấy ông ở trong một cái hẻm cực khổ quá chừng, thấy vậy họ nói: tôi có ngờ đâu tưởng cha khá chứ, rồi họ giúp mỗi người một tay kẻ thì biên số, người thì thâu đồ giùm mà giúp đỡ cả nước Pháp. Về sau cha đi làm nghề moi ở những đống rác, ở Pháp một nước văn minh như thế nhưng cũng có một số người hết sức khổ, đói khổ đến nỗi mình người Việt Nam không tưởng tượng được, họ đi moi rác kiếm thức ăn. Buổi sáng lễ khoảng năm giờ có những người dùng một cây gậy nhọn ở trước đến mấy đống rác moi rác ra, nếu thấy được một miếng mì thì lấy gậy thọc bỏ vào bị, hoặc thấy có miếng thịt, miếng xương cũng lấy gậy đâm bỏ vào bị, tàn thuốc cũng nhặt bỏ vào bị. Về nhà thì thức ăn như mì thịt thì ăn, tàn thuốc thì xé ra bỏ vào ống điều mà hút. Đôi khi vì dành nhau, đập đánh nhau vì đống rác. Vì thế cha lập cái hội đi moi rác, chia rác mà moi, khu vực nầy thì mấy người này moi, khu vực kia thì mấy người kia moi. Anh em thấy dùng các phương tiện của trần thế mà làm việc tông đồ. Hay có một cha khác nữa, hiện giờ đây còn sống, tôi đã được gặp, tên là Werenfried Van Straaten người Hoà lan, khi người ta dì cư chạy qua Âu châu, ngài đứng lên hô hào trên đài phát thanh chỉ xin một điều thôi: xin thịt mỡ, thịt mỡ ướp mặn để giúp những người chạy qua không có gì ăn, vì thịt mỡ ướp mặn ăn ít tốn. Trong mấy tháng đầu người ta đã góp cho ngài từng ngàn tấn, và cuối cùng ai cũng nói tên ông dài quá, cho nên ai cũng gọi ông là “cha thịt mỡ" và cho đến bây giờ, một mình ngài với tổ chức như vậy để giúp những nước chủ nghĩa xã hội thôi, gởi qua những nước đó năm trăm chiếc xe. Bởi vì ở các nước đó thì cha già mới được phép làm việc, mà các cha già thì đi không nổi, nên đã mua xe nhỏ gởi qua được năm trăm chiếc với ba triệu mỹ kim, mà ai cũng biết tên là của cha thịt mỡ. Thịt mỡ là phương tiện trần thế, nhờ trần thế vì là nhờ thịt mỡ mà làm việc tông đồ, không phải là cái gì lạ lùng hết, nên đó là việc tông đồ đặc biệt của Tu hội.

IV. Việc tông đồ ấy đòi buộc thế nào ?
Đòi buộc ba điểm này:
1/ Phải có ơn thiên triệu đặc biệt, không đặc biệt thì không thể sống nổi giữa đời.
2/ Có một cuộc sống giữa đời, chứ không phải là sống trong nhà dòng.
3/ Phải có một việc tông đồ thích hợp với môi trường đang sống.

V. Theo giáo luật thì Tu hội được xếp vào hạng nào ?
Ở vào hạng ba trong các bậc trọn lành:
Hạng nhất: Dòng tu: Đa Minh, Xitô, Cát minh
Hạng nhì: Các Hiệp Hội có đời sống chung: Dòng thánh Gioan Trợ Thế, các cha dòng trắng, Dòng th.Phaolô, các Dòng MTG, Dòng Nữ Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ, v.v...
Hạng ba: Tu hội (có chỗ nói Tu hội đời)
Từ “hạng” dùng ở đây chỉ có nghĩa là các hình thức tu này được Giáo Hội chính thức công nhận lần I, lần II và lần III theo thời gian, chứ không phải là hạng nhất cao hơn hạng nhì, hạng nhì hơn hạng ba như có người lầm tưởng!

VI. Tại sao sống giữa đời mà được kể là ở trong một trạng thái giáo luật (état canonique)?
Được kể là một trạng thái của giáo luật, vì chưa hội đủ các tính cách giáo luật đòi buộc cho một dòng tu:
1/ Hội thánh công khai chấp nhận
2/ Có mục đích riêng: thánh hoá bản thân, cứu rỗi linh hồn.
3/ Buộc mình tiến tới sự trọn lành, theo lời khuyên của Phúc âm.
Nếu không có ba điều trên thì không thể ở trong một trạng thái của giáo luật được. Giữ lời khuyên Phúc Am là nhắc người giáo dân khi mình hứa giữ điều gì thì mình buộc phải giữ lời khuyên Phúc Âm, hoặc lời khấn, hứa, tuyên thệ... tên thì khác nhau nhưng mà giống nhau gọi là Toàn Hiến. Bây giờ, các anh các chị hỏi rằng: Mấy nhà dòng với Tu hội đời khác nhau như thế nào ? Một bên thì tu ở dòng, một bên thì tu ở đời, nếu mà nói như vậy thì cũng giống như tu ở Dòng vậy, có gì khác nhau đâu ?

VII. Tình trạng Tu hội đời theo giáo luật khác các Dòng tu thế nào ?
Tu hội đời khác một nhà dòng là vì không có sống chung, không có tu phục, không có chế độ khó nghèo như nhà dòng, thí dụ nhà dòng không có ai được giữ của, chị quản lý hay cha quản lý giữ của chung, ruộng đất, nếu là của cha mẹ cho thì giao cho nhà dòng quản trị. Còn ở trong Tu hội đời thì của ai nấy giữ nhưng phải được xử dụng theo đúng tinh thần nghèo khó. Hội viên của Tu hội đời có thể làm được nhiều nghề mà giáo sĩ nếu không có phép của Tòa Thánh hay Đức Giám Mục thì không được phép làm, thí dụ như hành nghề y tá hay bác sĩ.

VIII. Về phương diện thiêng liêng của Tu hội Đời có gì đặc biệt?
Các Tu hội đời muốn thực hiện phương châm: Nhập thế để thánh hoá trần thế, không phải sống riêng trong tu viện, nhưng là xông vào thế gian như Chúa Giêsu nhập thế, Người từ trời xuống ở với Đức Maria, như men trong bột.

IX. Tính cách trần thế của việc tông đồ như thế nào ?
1/ Tu hội đời hợp tác: vừa tu, vừa làm, như làm ở trường học, nhà thương...
2/ Tu hội đời xâm nhập: cử giữ nghề nghiệp cũ của mình và xâm nhập vào xã hội.

X. Tu hội đời thực hiện Phúc Âm cách nào ?
Các hội viên diễn tả lại sự mầu nhiệm của Chúa Giêsu trong nghề nghiệp của Người ở Nazareth, trong sự hiện diện của Người với hai môn đệ đi làng Emau, lúc đi dạo ở bờ hồ Tibêria sống như men trong bột, muối của đất, ảnh sáng của mặt trời, hạt giống sinh cây: Đó là tinh thần của Tu hội sống trong Phúc âm.

XI. Tinh thần các Tu hội đời dựa trên khía cạnh nào của đời Chúa Kitô ?
Tinh thần các Tu hội đời là tất cả chúng ta muốn nên thánh trong cuộc đời của chúng ta, phải nên giống Chúa Kitô. Không có ai vào nước thiên đàng mà không phải nên giống Chúa Kitô. Chỉ có người nên giống Chúa Kitô mới được vào nước thiên đàng mà thôi. Ai mà xuống luyện tội thì giống người thi trượt, học lại rồi thi keo khác. Xuống luyện tội để khi nào giống Chúa Kitô thì lên thiên đàng. Vì vậy mọi công việc tông đồ của chúng ta phải giống Chúa Kitô. Các linh mục thì giống Chúa Kitô làm linh mục, dòng khổ tu thì giống Chúa Kitô ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, nên trong lịch mới có tên các thánh: Gabirie Đức Mẹ sầu bị, Gioan thánh giá vì ngài được in vào mình mầu nhiệm thánh giả, Phanxicô năm dầu vì ông được in năm dầu thánh, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu vì bà yêu mến Chúa Giêsu Hài Đồng và suốt cuộc sống bà sống như Chúa Giêsu Hài Đồng. Mỗi người đều phải in hình ảnh Chúa trong lòng mình. Tu hội đời lấy mầu nhiệm Chúa Giêsu nhập thể nghĩa là Chúa làm người, nói cách đơn sơ nhất như ông bà chúng ta đã nói và lấy đó làm căn bản.
Chúa Giêsu hiện diện mà ẩn mình, Chúa ẩn mình để thánh Madalêna không nhận ra khi bị cắp mất xác Chúa, hiện diện thì có hiện diện nhưng ẩn mình nên người ta không biết Chúa là ai, ma quỷ cũng đến cám dỗ Chúa nữa,
vì Chúa hiện diện mà ẩn mình, Chúa đến gần nhân loại, để nhân loại đến với Ngôi Hai làm người, Ngôi Hai con Đức Chúa Trời, nhưng che giấu thiên tính, nên đã sinh ra nằm trong máng cỏ, mục đồng thờ lạy mà không hay biết. Cuộc sống chúng ta ở giữa đời là hiện diện luôn luôn mà ần mình. Không ai biết chúng ta ở Tu hội nào, chúng ta tu mà không biết chúng ta tu, anh em ở giữa thế gian tu thật, kết hợp với Chúa thật mà không ai biết vì không có cơ sở, không có áo dòng, không sống chung; nhưng thật sự là tu và thành tạc lại Chúa Giêsu nhập thể, Chúa ở trong xưởng thợ không ai biết, Chúa vác thánh giá không ai hay, Chúa đến viếng người đàn bà Samaria cũng không ai biết, ngài xin miếng nước uống mà bà ta không cho vì có sự kỳ thị giữa Do Thái và Samaria. Sau một hồi đối thoại, bà hoảng hốt nói: ông là ai bà lại biết rõ như vậy ? Thật là Chúa, Chúa hiện diện, nhưng Chúa ẩn mình, đó là mầu nhiệm của những người ở trong Tu hội đời.

XII. Sinh hoạt trong Hội Thánh, Tu hội đời có lời khấn gì không?
Phải có sự dấn thân vĩnh viễn và bền bĩ. Dấn thân với Chúa với Giáo Hội và với Tu hội của mình với đoàn thể của mình.
Vĩnh viễn nghĩa là không rút lui. Bền bĩ tức là không thay đổi. Dấn thân trọn vẹn.

XIII. Gọi dấn thân như thế bằng tên gì ?
`Có nhiều cách gọi như: Toàn hiến, dùng toàn hiến thay tận hiến để tránh sự lầm lẫn theo pháp ngữ hoặc là dấn thân tức là sự trao tặng hiến mình cho Chúa, tiếng Pháp gọi là donation. Sự trao tặng đó hay sự toàn hiến đó cũng như danh từ khấn, hứa hay tuyên thệ đều là những cách hiến mình cho Chúa. Sự dấn thân này có tính cách công khai, hay có người gọi đó là lời khấn công khai của Tu hôi đời (vœux public séculier).

XIV. Hội thánh chấp thuận cách nào ?
Cũng như thường lệ, các dòng được lập ra thì Hội Thánh cũng thừa nhận. Ban đầu sau khi thử một nhóm người, Đức Giám Mục cho khấn hứa, và hội đó gọi là hội đạo đức. Tiếp đến, nếu nhiều người cho là không có gì ngăn trở và được nhận vào số Tu hội đời của địa phận. Thời gian này khoảng mười, mười lăm năm. Sau cùng, nếu bành trướng ra nhiều quốc gia, sẽ được sắc chỉ Toà thánh ban khen và được nhận vào bậc Tu hội đời vĩnh viễn. Mỗi lần được công nhận như vậy thì có thay đổi nội quy, để nội quy được đổi mới và hoàn bị hơn.

XV. Tổ chức cách nào ?
Cũng như trong các hội dòng, trước hết các hội viên bầu lên những người phụ trách. Những người được bầu làm thành một hội đồng, hội đồng gồm khoảng mười người, và mỗi người nhận một chức vụ, hội đồng lo việc thường vụ; xem sóc và tổ chức. Xem sóc để tránh những gì không hay xảy ra trong tu hội trong việc huấn luyện hay trong công việc tông đồ. Còn quyết định những việc quan trọng phải do đại hội quyết định: lập luật.

XVI. Huấn luyện một Tu hội đời như thế nào ?
Cây nào mau ăn trái thì mau chết, cây nào lâu ăn trải thì sống lâu hơn. Như vậy thường phải có:
  1. Một thời gian thăm dò
  2. Thời gian dự thử
  3. Thời gian tập tu
  4. Dấn thân từ 6 đến 9 năm
  5. Thời gian dự thử III (dịp này có thể cấm phòng lâu trong một nhà chung).

                                                         =======   
BÀI 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA TU HỘI ĐỜI

Có bốn vấn đề chính:
  1. Tình trạng các hội viên
  2. Sự liên lạc với hàng giáo phẩm
  3. Công việc tông đồ của các hội viên
  4. Đời sống thiêng liêng của các hội viên
A/- Nói chung: Cái gì cũng đặc biệt hết, đặc biệt vì cái gì cũng đầy đủ cả. Vừa giáo dân mà vừa tu sĩ và vì huấn luyện kỷ luật như vậy nên còn hơn tu sĩ nữa. Ở trong gia đình và đi làm nghề như mọi người khác, đôi khi có người vừa làm bộ trưởng, vừa làm bề trên của Tu hội nữa. Tóm lại nghĩa là ở đời, sống trong sạch, không tham nhũng vì đã làm việc Chúa rồi.

B/- Nói riêng:
1/ Tình trạng hội viên:
a/ Về phương diện thần học: Hội viên của Tu hội đời là tu sĩ, vì họ toàn hiến cho Chúa, điều cốt yếu để nên tu sĩ là để tận hiến cho Chúa và cho các linh hồn, cho nên hội viên của Tu hội đời cũng là tu sĩ.
b/ Về phương diện giáo luật Hội viên của Tu hội đời là thứ tu sĩ đặc biệt vì không thuộc một dòng tu nào, không tu viện, không áo dòng. Vì vậy mà không gọi tập viện để chỉ thời kỳ thử.
 c/ Về phương diện xã hội: Họ vẫn là người đời, không có y phục riêng, vẫn làm việc ở giữa đời, không tách ra khỏi đời.
2/ Sự liên lạc với hàng giáo phẩm
a/ Trước hết họ ở dưới sự chăm sóc của hàng giáo phẩm.
b/ Nhưng họ rất âm thầm kín đáo, không ai biết tới họ, họ âm thầm hoạt động mà không cần phải tỏ cho ai biết mình là hội viên của Tu hội, cả giáo sĩ cũng không cần cho biết, kẻo khó hoạt động, bằng không họ sẽ cho là thầy dòng nguy trang hay chị dòng đội lốt.
3/ Công việc tông đồ
a/ Khó khăn: Công việc tông đồ của hội viên Tu hội đời rất khó khăn vì ở giữa trần thế, không cơ sở như nhà trường, nhà thương... để làm việc tông đồ, không phương tiện gì hết, tuy nhiên cũng dễ vì không cần tốn kém, y phục sẵn có gì dùng nấy.
b/ Phải từ bỏ: Từ bỏ ý muốn thấy kết quả mà được người ta xác nhận. Đó là một sự hy sinh các cha dòng Chúa Cứu Thế, các sư huynh Lasan, các nữ tu truyền giáo, Vinh sơn... đạt được nhiều kết quả được nhiều người biết đến, riêng hội viên của Tu hội Đời làm việc dù có kết quả chăng nữa vẫn dấu kín không ai hay biết. Đó là công việc tôi làm, kẻo nếu mọi người biết sẽ bất lợi cho công việc về sau. Chỉ mình Chúa biết và những anh em hội viên biết mà thôi. Nếu ta là một Đại tá chỉ huy, nếu có làm được việc gì đáng kể, thì không nên cho ai hay đó là việc ta làm được.
c/ Phải cần mật và nhẫn nại
4/ Đời sống thiêng liêng
Gồm những điểm sau đây:
a/ Đặc biệt: Vì không giống dòng nào. Vẫn gìn giữ đời sống bên trong với Chúa, đang khi vẫn ngồi bán bún bò ngoài chợ.
b/ Thích hợp: Không trái mùa và không lệch lạc. Một người được bạn bè mời đi ăn uống vẫn nhận lời cách vui vẻ như thường, không vì lý do hội viên của Tu hội đời mà từ chối hay nhăn nhó, khó khăn, vì Tu hội đang ở giữa trần thế.
        c/ Mềm dẻo: Không đóng khung trong giờ giấc đời sống, không bị giới hạn trong một khoảng thời gian nào đó. Không nhất định tám giờ là tôi đi ngủ hay giờ nọ là tôi cầu nguyện ... trái lại phải uyển chuyển và thích hợp với công việc.
d/ Uyên thâm: Không hời hợt nông cạn, tình cảm, nay sốt sắng đến chảy nước mắt, mai lại bỏ bê. Phải luôn luôn nhớ mình đã toàn hiến, là của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa rồi. Dù nơi chợ búa ồn ào mình vẫn sống kết hợp với Chúa luôn, một đời sống đạo đức thâm sâu.
e/ Tông đồ: Khác với các tu sĩ khổ tu, họ ăn chay thinh lặng, nhưng hội viên thì khác, một ngày được mời đi ăn năm bữa vẫn đi ăn như thường, nói suốt ngày vẫn được, bởi vì họ đang dấn thân trong công việc giữa trần thế.
Trên đây là những điểm đặc biệt đã được trình bày theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XII. Ngài đã được linh ứng cách lạ để nói lên những điểm chính sau đây:
  1. Một ơn gọi đặc biệt: Đức Giáo Hoàng nói: "Chúa Thánh Linh đã gọi đến với Người, bằng một ơn cao cả và đặc biệt, những người theo Tu hội đời, vừa ở thế gian vừa toàn hiến cho Chúa và các linh hồn với sự chấp thuận của Hội Thánh" (Primo Feliciter)
  2. Một đời sống đặc biệt: Đức Giáo Hoàng nói: "Họ có thể sống một cuộc sống hoàn toàn trần thế, làm việc tông đồ riêng, việc tông đồ của sự hiện diện giữa trần thế, bằng nghề nghiệp, bằng hoạt động, những hình thức, những nơi chỗ, những trường hợp liên quan với lối sống giữa trần thế" (Primo Feliciter II)
  3. Một việc tông đồ đặc biệt: Đức Giáo Hoàng nói: “Việc tông đồ của hiện diện bao trùm cả cuộc đời, tất cả đời sống của hội viên phải trở nên tông đồ, một việc tông đồ phải thực hiện liên lỉ" (Primo Feliciter II)
  4. Những phương tiện tông đồ đặc biệt: Đức Giáo Hoàng nói: “Việc tông đồ được thực hiện không những giữa lòng trần thế mà nói được là nhờ trần thế qua tất cả mọi hình thức hoạt động và mọi hoàn cảnh liên quan đến đời sống trần thế" (Primo Feliciter II)
                                                         ====== 
 
BÀI 4
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TU HỘI VÀ HỘI ĐOÀN

Một Tu hội đời và một Hội đoàn khác nhau ở những điểm nào ?

1/ Việc tông đồ: Hội đoàn cũng như Tu hội cả hai cùng có mục đích là làm việc tông đồ, nên không có gì khác nhau.

2/ Môi trường: Mỗi Hội đoàn chỉ có một môi trường như trường học... còn Tu hội bao gồm mọi môi trường, gồm đủ mọi hạng người, làm đủ mọi nghề, nhưng tất cả cùng một bậc với nhau và cũng được học tập như nhau nên vẫn là anh em với nhau.

3/ Lòng sốt sắng: Trong Hội Đoàn, các đoàn viên hoạt động tuỳ lòng sốt sắng, muốn thì sinh hoạt, không muốn thì nghỉ. Tu hội thì khác, một khi đã gia nhập và đã tuyên hứa rồi thì phải hoạt động trong tu hội suốt cả đời, như những tu sĩ vậy. Tu sĩ muốn ra khỏi dòng thì phải chuẩn lời khấn mới được ra. Không chuẩn mà ra thì có tội. Trong Tu hội khi đã tuyên hứa công khai rồi thì cũng như đã khấn trong dòng, muốn ra phải làm giấy xin Đức Cha chuẩn. Thành ra đây là một sự hiến mình cho Chúa một cách thực sự.

4/ Lòng quảng đại: Trong Hội đoàn, các đoàn viên hoạt động nhiều ít, mạnh yếu tuỳ lòng mỗi người, tôi thích bao nhiêu thì làm bấy nhiêu. Theo nội quy mỗi tuần hay mỗi tháng tôi phải đi công tác mấy lần và tôi làm y như vậy thôi là đủ, không cần hơn.

Tu hội thì đòi hỏi rất nhiều: Phải theo lời khuyên Phúc Âm, nghĩa là tuỳ theo đấng bậc mỗi người, đi tu, ở độc thân, hay có gia đình mà sống khó nghèo, vâng lời và trinh khiết. Nếu là ở thế gian, mà giữ đức khó nghèo tức là không đánh bạc, tiền dư trong nhà thì bỏ vào quỹ tiết kiệm, để sau này khỏi lo thiếu thốn, được yên tâm mà lo việc tông đồ cho Chúa. Nếu không lo cho mình mà lại tiêu pha bừa bãi thì làm sao lo việc tông đồ được. Các linh mục trong Tu hội lại còn ngặt thơm các cha dòng vì các cha trong dòng những vấn đề tiền bạc đã có cha bề trên, thầy quản lý lo cho rồi.

5/ Sự bó buộc: Sự bó buộc trong các Hội đoàn thầu như không có gì. Luật lệ các hội đoàn không có tính cách bó buộc các đoàn viên, Họ có thể theo hay không theo, thay theo ít tuỳ hoàn cảnh của mỗi người. Còn trong Tu hội, thuy không ai ép buộc nhưng chính mình buộc mình, chỉnh mình kiểm soát lấy mình.

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TU HỘI VỚI DÒNG TU

Bây giờ chúng ta xét tới các dòng tu. Dòng tu cũng làm việc tông đồ như hội đoàn và Tu hội. Dòng tu giống hội đoàn ở chỗ cũng có môi trường riêng biệt. Thí dụ có dòng chỉ lo việc từ thiện như các bà dòng Vinh Sơn. Dòng Chúa Cứu thế lo giảng dạy cho dân nghèo, đặc biệt ở nhà quê (thánh Alphongsô ở nhà quê). Dòng Lasan mỡ trường dạy học trò có môi trường là học đường.

Dòng tu khác Tu hội vì Tu hội lo cho mọi môi trường với cùng một tinh thần. Ai làm được việc gì thì ở trong môi trường ấy. Có người là kỹ sư, có người là luật sư, cũng có người chỉ là thư ký. Tu hội làm việc tông đồ bằng cách xâm nhập mọi môi trường và củng cố cho mọi môi trường. Bởi vì làm việc trong mọi môi trường và làm một cách bền đỗ, trợn đời, thì chính họ là những cán bộ nòng cốt của môi trường. Hơn nữa họ lại có lời khấn để buộc họ nên sẽ phục vụ và nuôi dưỡng những người ở trong các hội đoàn. Tình thần Tu hội sẽ xâm nhập mọi môi trường và sẽ nuôi dưỡng và nâng đỡ các giáo dân trong đó nên thánh. Tu hội do đó có một vai trò vô cùng quan trọng cho việc tông đồ giáo dân.

Dòng tu khác Hội đoàn vì Dòng tu cũng có tính cách suốt đời như bên Tu hội. Dòng tu cũng như Tu hội là sống theo lời khuyên Phúc âm, cũng bị bó buộc và cũng tự bó buộc lấy mình. Nhưng Dòng tu khác Tu hội, vì khi đã gia nhập dòng, khi khấn hứa rồi thì phải ở trong nhà dòng, chỉ khi nào không tu nữa thì mới về thế gian. Còn Tu hội thì hội viên ở giữa thế gian, dù khi gia nhập hoặc đã khẩn rồi đi nữa. Chính vì thế Tu hội có châm ngôn: “Giữa Thế Gian - Nhờ Thế Gian".


Tông đồ như nhau, môi trường khác nhau, Dòng tu khởi sự khấn và sau khi khấn thì mặc áo Dòng và sau đó thì ở luôn trong dòng, khi nào không muốn ở trong Dòng nữa thì xin chuẩn lời khấn. Tu hội cũng khẩn như Dòng nhưng không có áo dòng riêng, không ở trong Dòng mà phải nhập thế, sống ở ngoài đời như người ngoài đời. Đức Giáo hoàng Piô XII đã dùng tiếng sécularité, một tiếng mới sæcula sæculorum nghĩa là đời đời, mãi mãi, một tiếng đời có nghĩa là ở đời, giữa đời và nhờ đời. Hai tiếng đời lại có nghĩa là mãi mãi, đời đời. Và Sécularité apostolique nghĩa là tông đồ trần thế, nghĩa là sống ở trong đời, trong mọi hoàn cảnh, mọi nghề nghiệp, xâm nhập vào đó để lo việc tông đồ. Chúng ta tóm tắt bảng câu: Giữa Trần Thế Và Nhờ Trần Thế.

Các anh, các chị đã thấy rõ những điểm khác biệt giữa Hội đoàn và Tu hội cũng như Dòng tu. Chúng ta cần một sự chọn lựa để dấn thân phục vụ Chúa, phục vụ anh em cho có hiệu quả, đắc lực. Tu hội là niềm an ủi cho chúng ta, có những người sống giữa trần gian không thuận tiện để toàn hiến cuộc đời mình cho Chúa trong một nhà Dòng nam hay nữ. Chúa đã dùng một phương cách đặc biệt để kêu gọi những người ở trần gian giúp vào công việc tông đồ, tham gia vào công trình cứu chuộc của Chúa. Hội thánh ngày nay càng ngày càng thiếu linh mục tu sĩ, một phần vì số linh mục tu sĩ càng ngày càng giảm, một phần vì nhân loại càng ngày càng sinh sản mau. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã nhắn nhủ rằng: công việc tông đồ của tu sĩ linh mục và công việc tông đồ của giáo dân đều quan trọng ngang nhau. Vì vậy không phải vì thiếu linh mục tu sĩ mà đặt ra Tu hội. Cũng không phải vì nặng nề, kém cỏi tu không được nên mới bày đặt ra Tu hội. Mà thực ra đây là một hình thức tu đặc biệt mà cha Berge, nhà chuyên môn đã viết ba cuốn sách rất dày nói về các Tu hội, ngài đã nói rằng: “trong bất cứ giai đoạn nào thì Hội Thánh đều tuyển mộ những đơn vị mới". Thời đại mới thì đạo binh của Hội Thánh lại có những đơn vị mới. Thời đại mới có những quân thù mới thì chúng ta phải có những đơn vị mới với những khí giới mới, có vậy mới có thể đương đầu nổi. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chiến đấu với những phương thế khi giới cũ thì có lẽ chúng ta không thành công được. Nhưng không phải vì thế mà những phương thể khí giới cũ trở nên không cần thiết nữa. Cũng như không phải khi lập ra lĩnh nhảy dù, thì đâu phải không cần bộ binh, không cần quân nhu, không cần Biệt Động quân... Vấn đề chính là phối hợp các đơn vị để hoạt động cho hữu hiệu hơn. Mới đây Mỹ đã xác nhận là lâu nay đã đưa máy bay không người lái để dò thám trên đất Bắc Việt. Người ta đã dùng điện tử để điều khiển cho máy bay cất cánh, chụp hình rồi lại hạ cảnh đáp xuống hàng không mẫu hạm, vô ga-ra của riêng từng cái. Tu hội chính là hình thức mới thích hợp cho thế giới để phục vụ hữu hiệu.

                                                        ======
 
BÀI 5
MỘT CON ĐƯỜNG MỚI

        “Như Cha đã sai con đi vào thế giới, con cũng sai chúng đi vào đời"(Ga 17,18)
        Ngày nay Đức Piô XII đã mở một con đường toàn hiến mới hầu nới rộng công cuộc truyền giao. Con đường mới này chính là những Tu hội đời.
Trong thời đại này phải có những con người tận hiến để làm men trong mọi môi trường sống và nhất là trong thế giới lao động.
Những thành phần của thế giới lao động, phần đông sống giữa trần thế trong các xưởng thợ, văn phòng, trường học, cơ quan xã hội, bệnh viện và với tất cả những nghề nghiệp có thể có. Trong những thành phần đó, người ta có thể tìm thấy bác sĩ, luật sư, giáo sư, nữ cán sự xã hội, nữ y tá, những kẻ làm công, công nhân đủ hạng, kỹ sư, người buôn bán, sinh viên, nông dân, thợ điện, thợ in, nhà báo, các cô bán hàng...
“Hợp thời", một công thức áp dụng cho vấn đề tôn giáo, cho những người tìm kiếm “một phương thức mới để sống Phúc Âm" mà vẫn còn là người của hè phố, hay con người lao động.
"Một công thức rất uyển chuyển, bởi vì còn là bác sĩ hay thợ sửa xe, giáo sư hay thợ điện, họ cũng tìm thấy nơi Tu hội đời một phương thế hữu hiệu để tiến về sự trọn lành và đạt đến mức trọn lành một ngày nào đó cũng như tất cả những người đã từ bỏ trần gian, mang chiếc áo dòng tu và sống trong tu viện". (Henry Roy)
Công thức này cũng được dùng cho những Tu hội đời nam cũng như nữ, gồm có những hội viên trong mọi môi trường.
Đối với tất cả mọi hội viên Tu hội đời vẫn đề quan trọng là "sống thực sự, trong mọi thời đại và trong mọi chốn, cuộc sống trọn lành phải làm sống lại tinh thần đạo giáo trong mọi gia đình, trong mọi môi trường nghề nghiệp, trong xã hội nhờ sự tiếp xúc thường xuyên và trực tiếp bằng một đời sống hoàn toàn tận hiến, đồng thời họ cũng làm những công việc tông đồ dưới nhiều hình thức và thì hấnh những công tác mà các linh mục hay các tu sĩ không thể làm được vì nơi chốn không hợp, vì thời giờ eo hẹp, hoặc vì hoàn cảnh quá khó khăn".
"Hội thánh đã cảm thấy nhu cầu của ơn kêu gọi mới này, để những tâm hồn không thể sống đời sống Dòng tu truyền thống được, có thể tiến đến mức trọn lành nhờ hướng đi mới này; họ muốn sống một cuộc sống trọn lành ngay giữa trần thể thực thi việc tông đồ hợp với những nhu cầu hiện đại, giữa lòng mọi nghề nghiệp và không đi ra ngoài công việc thường ngày của họ".
"Thật là sai lầm khi người ta ngăn cản những tâm hồn gia nhập vào Tu hội đời vì xem đó là một phương thế cuối cùng. Các Tu hội đời là một giai bậc trọn lành thực sự và đầy đủ: Có những tâm hồn được kêu gọi sống trọn vẹn lý tưởng Dòng tu trong một tu viện, và cũng có những tâm hồn khác cũng được kêu gọi để sống cùng lý tưởng ấy giữa trần gian”.
"Tu hội đời, như người ta thấy, hình thành thực sự một giai bậc trọn lành, và như thể Tu hội trong bản chất ngang hàng với các Dòng tu, và với các Hội có đời sống chung không lời khẩn. Ngoài ra nó rất khác với Công giáo tiến hành và các hội đoàn khác của giáo dân (các Huynh đoàn, Dòng ba...) mà giáo luật đã đề cập đến trong phần thứ ba của cuốn thứ hai, bời vì những hội đoàn của Công giáo tiến hành không đặt những thành phần của mình nằm trong giai bậc trọn lành” (Salvator Canals, chủ tịch Uỷ ban Tu hội đời trong Thánh bộ Dòng tu ở Rôma)
Hội viên của các Tu hội đời không phải là tu sinh Dòng ba, bởi vì Dòng ba thiếu đặc tính căn bản và hình thành một giai bậc đời sống. Nó cũng không phải là những chi nhánh của các Dòng tu có tu sĩ vào đời.
Đây là trường hợp cần phải nhớ lại rằng, giai bậc trọn lành là một theo nghĩa thần học nhưng là đa diện theo nghĩa pháp định.
Cũng như trong một giai bậc trọn lành khác, hội viên của Tu hội đời buộc phải giữ các lời khuyên Phúc Âm : Khó nghèo, trinh khiết và vâng lời, những lời khuyên hướng định thánh hoá toàn thể con người.
Như người ta biết, lời khấn của các Tu hội đời là một việc thuộc nhân đức tôn giáo, nên trong bản chất nó giống như lời khấn của tất cả các Dòng tu khác. Vấn đề các hội viên sống giữa trần thế, giữa những xào xáo cuộc đời, là để đáp lại một nhu cầu chứng tá, truyền bá Tin Mừng và xâm nhập vào mọi môi trường đời sống của thế giới tan biến.
Đó là công việc tông đồ được giao phó cho họ như một sứ mệnh nhận lãnh chính thức từ Hội Thánh. Bởi chưng Hội Thánh, chính là thời đại thấm nhập của tình yêu Thiên Chúa vào mọi thời đại, mọi văn minh mà chúng ta có phận sự rao giảng Tin Mừng cứu rỗi.
Các Tu hội này như một đoàn xe đăng trình chở theo mọi người thời đại, mọi văn minh với mọi công việc thường ngày mà họ phải sống.
Nếu thế giới cảm thấy xa lạ với Kitô giáo, thì Kitô giáo không cảm thấy xa lạ với thế giới, đó là điều các Tu hội cần lưu ý đối với thời đại hôm nay của Thiên Chúa, hầu có thể đem lại cho thế giới thế kỷ XX này, dấu chứng của một bác ái thực sự, với niềm xác tín thực thi một công việc bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói ở Bê lem : “Chúng tôi nhìn thế giới với một mối thiện cảm vô bờ... chở gì thế giới nhận được lời chào đầy kính trọng và đầy tình thương của chúng tôi".
Nếu Hội thánh qua số giáo dân tân tiến trong các Tu hội đời muốn hiện diện giữa trần thế, đó chính là đi lại con đường Đức Giêsu Kitô, Người đã xuống trần gian, "Người, dầu với địa vị Thiên Chúa, nhưng Người đã tự hạ và xoá bỏ mình đi mặc lấy điều kiện nô lệ trở nên giống như loài người chúng ta”. (Philipphê 2,6)
Điều kiện sống của Chúa Giêsu giữa trần thế và "trờ nên giống như anh em trong mọi sự" (Dt 2,17), là giai bậc mà các Tu hội đời dựng lại hiện nay ở khắp mọi nơi theo huẩn lệnh của Hội thảnh.
Vì phải sống giữa trần thế, không thể vào Dòng tu nên con người phải giải quyết những rắc rối cuộc đời với một tinh thần được linh ứng bởi Thần linh, được vui sống trong nguồn chân lý. Vì thế, đối với họ cần thiết phải hoạt động trong mọi lãnh vực để phục vụ Hội thánh và con người dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
Việc đó được gọi là hiện diện giữa trần thế bằng một nếp sống mà những kẻ khác cùng chia sẻ, bằng sự lo lắng với những kết quả của công việc, xoay chiều đến mọi môi trường cuộc sống, đồng thời thực thi Tin Mừng tại những điểm chiến lược của đời sống con người.
Những Tu hội này là đoàn quân chinh phục nước Chúa trong Giáo Hội. Họ bắt tay vào việc với một niềm hăng say can đàm mới đang bừng lên với những sáng kiến kỳ diệu, thực thi các công việc tông đồ.
Bởi thể, họ không bao giờ xa lạ đối với cộng đoàn con người. Ơn gọi của họ, trái lại đã nối kết họ mật thiết với công việc với khổ đau và với đầu tranh của mọi người anh em mà họ giúp đỡ qua chứng tích của một cuộc đời đang cố gắng thực hiện, từ dưới đất này, sự hoàn hảo tình yêu mà tất cả mọi người phải vươn tới.
Hiện diện trong Giáo hội và giữa trần thế, những tâm hồn toàn hiến trong những Tu hội đời vẫn tiếp tục những hoạt động nghề nghiệp riêng biệt cũng như những công cuộc tông đồ của châu thành trần thế.
Trong cương vị là người toàn hiến, họ phục vụ cho công cuộc cứu rỗi họ đang ở giữa trần thế như địa bàn hướng dẫn lối đi cho thế trần.
Hội thánh đặt để rất cao chứng tích mà họ, những con người toàn hiến đưa ra đối diện với trần thế và Giáo Hội xem chứng tích ấy như một cái gì cần thiết bởi vì nó chuẩn bị cho công cuộc hoàn tất Nước Trời bằng cách mạc khải cho kẻ khác Tin mừng Phúc Âm từ những công việc trần gian.
"Khi người ta nghĩ rằng 5/6 nhân loại còn thiếu linh mục, rằng cả nhân loại có một nhu cầu cấp thiết là phải có ngày càng nhiều hơn những con người hoàn toàn tận hiến cho việc tông đồ dưới mọi hình thức, thì người ta thực hiện một cách dễ dàng đến mức độ nào đó để mọi linh mục phải luôn luôn lo lắng tăng số những ơn gọi tông đồ" (Đức Cha Cardijin).
Đàng khác tổ chức công giáo tiến hành của chúng ta kêu gọi mọi người nam, nữ phải biết đặt nền tảng cho công việc của họ bằng sự thánh thiện hoàn toàn và sự dứt khoát từ bỏ mình bằng việc toàn hiến vĩnh viễn cho Thiên Chúa.
Những hội viên của Tu hội tận hiến cho Thiên Chúa qua lời khẩn khó nghèo, trinh khiết và vâng lời, hoàn toàn phù hợp với những nhu cầu của đời sống họ giữa trần thế. Sự toàn hiến của họ đi đến lời khẩn vĩnh viễn.
Họ muốn ở giữa trần thế như những “viện tu di chuyển" mang trong tim ngọn lửa tình yêu nồng nàn sốt mến, muốn ôm ấp cả vũ trụ vào lòng. Họ hoàn toàn không muốn có phân cách trong cuộc sống của họ giữa ý nghĩa của Thiên Chúa và ý nghĩa tông đồ. Đó thật là một ơn gọi tuyệt vời những riêng biệt để người ta đáp trả lời kêu mời của Thiên Chúa, hầu trung thành với Người và kết hiệp với Đức Giêsu Kitô đến những đòi hỏi tột cùng của tình yêu.
Những Tu hội này muốn thực hiện lại đời sống tông đồ của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên và cũng giống chính đời sống của Đức Giêsu, của Mẹ Maria giữa loài người khi còn ở trần gian. Và hình như không có một đời sống toàn hến nào gần gủi với Đức Giêsu và Mẹ Maria cho bằng cuộc sống đó.
Chúa Giêsu đã làm người như mọi người chúng ta. Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với Chúa Giêsu ngoại trừ tội lỗi. Nơi Người có một sự quân bình tuyệt diệu. Người cũng dạy cho chúng ta vì uy danh Thiên Chúa, chúng ta dấn thân trong những công việc trần thế.
Đời sống của các hội viên Tu hội đời phải thể hiện hoàn toàn hết sức có thể ĐỨC ÁI mà Phúc Âm đã vạch rõ những đòi hỏi của nó và chính Đức Giêsu và Maria cũng nêu gương giữa thế giới con người. Đó là một cuộc sống hoàn toàn được linh động bởi tinh thần của Nước Trời luôn thúc đẩy tiến triển theo Đức Ái đang biến đổi cục diện thế giới.
Tất cả những điều đó đòi hỏi một tinh thần hoàn toàn phó thác phục vụ các linh hồn, đó là mục đích mà Hội Thánh đã đặt để cho họ. Chúng ta không có quyền làm ngơ ngoảnh mặt, viện cớ lưu luyến quá khứ. Sống trong quá khứ là sống trong vô thức không còn nữa, đó là sống ngoài chương trình của Thiên Chúa, Người đã đưa chúng ta vào trên trần thế trong một thời gian nhất định và trong một không gian riêng biệt để hoàn tất công việc của Người nơi ấy, không phải với những phương thể xa xưa, nhưng với những phương thế hôm nay. Người ta có thể nói rằng Tu hội đời là một phương thế hôm nay. Giữa những phương thế khác.
Như thế, không phải là thời gian để yên ngủ, để bịt tai trước những kêu mời dập dồn của Thiên Chúa mà hơn bao giờ hết Người đang cần thợ cho vườn nho của Người. Thời gian cấp bách và Thiên Chúa chờ đợi chúng. Những người anh em cũng chờ đợi chúng ta.
        Ơn gọi Tu hội đời nằm trong lòng những thực tại trần gian với một tâm hồn nuôi dưỡng bằng những thực tại thiên quốc.
Để yêu thương trần thế với cách đó nghĩa là với một tình yêu giải thoát trần thế khỏi tội lỗi, những Tu hội mà chúng ta sẽ đề cập đến cho ba lời khấn mà các hội viên phải sống trọn vẹn giữa trần thế.
        Qua các lời khấn các hội viên chối từ tiền bạc, tình yêu thuần tuý con người và ý riêng mình. Ơn gọi không đòi buộc họ phải từ bỏ mọi giá trị trần thế nhưng chỉ đòi buộc họ xử dụng một cách đứng đắn.
        Đó là một ơn gọi cao đẹp làm cho họ yêu mến trần thế với cùng tình yêu đã nung nấu con tim Thiên Chúa khi Người sai Con Một Người đi vào thế giới.
Đó cũng là qui luật của nguồn ơn cứu rỗi mà họ được kêu mời góp phần cộng tác.
Còn bạn, bạn nghĩ gì trước con đường mới đang trãi rộng trước mặt bạn ?
                                                      ======
BÀI 6
VỀ CÁC TU HỘI ĐỜI ĐÃ ĐƯỢC THÀNH LẬP
VÀ CHÍNH THỨC CÔNG NHẬN

Chắc hẳn anh chị em muốn biết các Tu hội đời đã được Toà Thánh công nhận. Cho tới nay có ba loại Tu hội đời đã được công nhận. trước hết là các Tu hội đời linh mục, rồi đến các Tu hội đời giáo dân chỉ dành riêng cho nam giới và các Tu hội đời chỉ dành riêng cho nữ giới. Ngoài ra còn các Tu hội đời hỗn hợp gồm ba ngành: Ngành linh mục, ngành giáo dân nam và ngành giáo dân nữ, tất cả do một vị linh mục đứng đầu làm Tổng Phụ Trách. Ngoài các Tu hội kể sau đây, còn có một số khác không quan trọng bằng, được thành lập khắp nơi, vì giờ đây người ta cho là rất hợp thời, không thể ghi hết trong khuôn khổ hạn hẹp này được.

1. Các Tu hội đời linh mục
Các Tu hội này không nhiều lắm. Hầu hết không nhận các chủng sinh, trừ khi họ đã được đào tạo xong. Trong số các Tu hội đời chỉ dành riêng cho linh mục, ta có thể kể:
1/ Tu hội Thánh Tâm Chúa Giêsu (La société du Coeur de Jésus) thành lập năm 1792 và được chuẩn nhận bởi Toà Thánh như một Tu hội đời ngày 02.02.1952 (BEYER A.A.S. pp 35 – 50)
2/ Các Linh Mục thừa sai Chúa Giêsu (Les Missionnaires de la Royauté de N.S.J.C) do cha GEMELLI thành lập năm 1953.
3/ Hiệp hội Anh em Chúa Giêsu (L'Union des Frère de Jésus) của Cha Ch. De Foucauld, đang thành lập.

4/ Nhóm Caritas Christi
5/ Nhóm Missionnaires des Malades

II. Các Tu Hội đời chỉ qui tụ nam giới
1/ Les Missionnaires de la Royauté de N.S.J.C do cha Gemelli sáng lập, đưa lên hàng Tu Hội đời thuộc thẩm quyền giam mục ngày 04.10.1931.
2/ Millites Christi, thành lập tại Milan năm 1938 và nâng lên Tu hội thuộc thẩm quyền địa phận ngày 01/5/1952.
3/ L'Union des Cathéchestes de Jésus crucifié et de Marie Immaculée, quy tụ cựu học sinh Frères des Écoles Chrétiennes, nâng lên Tu hội thuộc thẩm quyền giám mục ngày 24/6/1948.
4/ Petits Frères des Pauvres thành lập ở Paris năm 1945.

III. Các Tu hội đời dành cho nữ giới

1/ Institution Thérésienne thành lập năm 1911, được Toà Thánh chính thức công nhận ngày 21.6.1951.
2/ Les Missionnaires de la Royauté de N.S.J.C. thành lập năm 1919, được Toà Thánh chính thức công nhận ngày 03.8.1953.

3/ Filles de la Reine des Apotres thành lập năm 1921, được Toà Thánh chính thức công nhận ngày 08.12.1954.

4/ Les Missionnaires des Malades thành lập năm 1938, được Toà Thánh chính thức công nhận ngày 06.01.1961.
5/ Những Tu hội sau đây đã được chấp nhận bằng Sắc lệnh ban khen:
- Notre Dame du Travail, thành lập năm 1917, được chấp nhận ngày 03.01.1953.
- Notre Dame de Rome thành lập ngày 04.8.1936. được chấp thuận ngày 03.01.1953.
- Caritas Christi thành lập ngày 04.8.1937 được chấp thuận ngày 19.3.1955.
- Apotre du Sacré Coeur de Jésus thành lập năm 1919, được chấp thuận ngày 24.3.1955.
  • Filles des Sacrés Coeurs de Jésus et de Marie thành lập ngày 24.9.1924, được chấp thuận ngày 11.02.1958.

IV. Các Tu Hội đời hỗn hợp
1/ Société sacerdotale de la Sainte Croix và Opus Dei, thành lập năm 1928, được chính thức công nhận ngày 16.7.1950.
2/ Compagnie de Saint Paul thành lập năm 1920 và được chấp thuận bằng sắc lệnh ban khen ngày 29.6.1949.
3/ Les Prêtres, Ouvriers diocésains du Coeur de Jésus Tu hội chung cho linh mục và giáo dân, thành lập năm 1883, được chính thức công nhận ngày 19.3.1952.
4/ Institut de Don Nicolas Mazza, có năm loại hội viên (linh mục nôi trú, linh mục ngoại trú, giáo dân nội trú, giáo dân ngoại trú, giáo dân đại học đã lập gia đình)
-Servi della Chiesa, gồm ba loại hội viên : Linh mục giáo phận, giáo dân làm việc ngoài đời, giáo dân giúp việc các linh mục trong công việc tông đồ.
-Mission ouvrière Saints Pièrre et Paul do cha Jac.Loew thành lập, qui tụ các linh mục và giáo dân vào ngành lao động.

5/ Tu hội Thừa Sai Chúa Giêsu, do Cha Gioan-Maria Trần minh Cương thành lập năm 1979, có 3 ngành. Hai ngành Nam và Nữ thuộc đời thánh hiến sinh hoạt biệt lập - gồm các linh mục, chủng sinh và các bạn thanh niên nam, nữ muốn sống độc thân giữa đời, và Ngành Cầu Nguyện & Bảo Trợ gồm tất cả các tín hữu thiện chí có gia đình hay chưa hoặc vẫn sống độc thân giữa đời. Đã được Đức Cha Phaolô Nguyễn văn Hoà, Giáo Phận NhaTrang chính thức nâng lên Hiệp Hội Công tiến đến Tu Hội Đời theo Giáo Luật, ngày 30.11.1994.
   

                                                         A.M.D.G

 

Tác giả: thtscgs

Nguồn tin: Bài giảng của Đức Đáng Kính Hông Y FR.X Nguyễn văn Thuận

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây