THƯ LUÂN LƯU số 02

Thứ ba - 26/10/2021 11:47
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
         Số 02/TLL/2021

 
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH

Yêu mến Mẹ Maria
Thưa Bà, đây là con của Bà... “đây là Mẹ của anh”.
 Kể từ giờ ấy, người môn đệ rước bà về nhà mình”(Ga 19,27)

Phan Rang, ngày 08.09.2021

        Anh chị em quý mến,

      Chúng ta sắp bước vào tháng 10, tháng Mân Côi kính Mẹ. Tháng 10, gợi nhắc chúng ta về biến cố Mẹ hiện ra tại làng Fatima, nước Bồ Đào Nha năm 1917, với ba bé chăn cừu là Luxia, Gia-xin-ta và Phanxicô, truyền dạy sứ điệp 03 nội dung: Cải thiện đời sống – Siêng năng lần chuỗi Mân Côi - Tôn sùng Trái tim Mẹ , như phương thế cứu rỗi bản thân và cứu thế giới.
  1. Lòng Sùng Kính Mẹ Maria trong Giáo Hội
         Giáo Hội dành một sự tôn kính đặc biệt cho Đức Maria. Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về Mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa qua Đức Maria, người trở thành Mẹ của Thiên Chúa. Từ Cđ Êphêsô năm 431, tín điều này đã được khẳng định đến Công đồng Vatican II và Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II qua thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Thế) tái khẳng định Đức Maria đã được tôn kính không chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn là Mẹ của Giáo hội.

        Là Mẹ của Chúa Giêsu, Đức Maria có một vai trò trung tâm trong Giáo hội. Việc sùng kính Đức Maria đã phát triển theo thời gian cả không chỉ trong lời cầu nguyện, phụng vụ mà cả trong nghệ thuật, thơ ca và âm nhạc. Các ĐGH đã khuyến khích việc tôn kính này nhưng theo thời gian cũng đã có những cải cách nhất định. Truyền thống công giáo dành cho Đức Maria nhiều tước hiệu, lễ kính và phương thức tôn kính hơn bất kỳ truyền thống Kitô giáo khác. ĐTC Biển Đức XVI cho rằng Maria là Mẹ Thiên Chúa vẫn tiếp tục "cầu bầu và ban nhiều ân sủng nhờ phước lành của Thiên Chúa."

        Vai trò quan trọng của Maria trong niềm tin Công giáo Rôma cùng với sự phát triển củaThánh Mẫu Học Công Giáo không chỉ dựa trên những tuyên bố chính thức từ Rôma, từ truyền thống của các thánh mà còn từ chính cộng đồng tín hữu lẫn công chúng ở khắp nơi trên thế giới. Đôi khi điều này thông qua các báo cáo về việc Đức Mẹ hiện ra với các em nhỏ trên các quả đồi. Tòa Thánh vẫn tiếp tục công nhận những cuộc hiện ra này mà lần chấp thuận gần đây nhất là vào tháng 5 năm 2008. Một số cuộc hiện ra, chẳng hạn như Fatima đã trở thành một điểm hành hương đón tiếp hàng triệu khách trên khắp thể giới.

1/- Thời Giáo Hội sơ khai

       Lịch sử lòng sùng kính Đức Maria có từ thế kỷ thứ 1. Các Kitô hữu đầu tiên tập trung lòng đạo đức của họ nơi các thánh tử đạo. Hình ảnh Đức Maria đã được tìm thấy trong các hang toại đạo Priscilla, hang toại đạo thánh Phêrô, hang toại đạo Maiô. Sau đó họ nhìn thấy nơi Đức Maria là cầu nối giữa cái cũ và cái mới. Trong thế kỷ thứ 2, Thánh Irênê thành Lyon gọi Mẹ Maria là "Eva thứ hai" bởi vì nếu như Eva thứ nhất "bất tuân" thì qua Mẹ Maria và sự sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa của Mẹ, nhân loại đã được hồi sinh. Lời cầu nguyện với Đức Maria xuất hiện sớm nhất là Kinh Trông Cậy. được cho là ra đời vào khoảng năm 250.

       Sau khi sắc lệnh Milan, các Kitô hữu được phép thờ phượng công khai và việc tôn kính Đức Maria trở nên phổ biến. Trong những thập kỷ sau, nhiều thánh đường và nhà thờ được xây dựng. Các nhà thờ kính Đức Mẹ đầu tiên được xây dựng ngay tại Rôma từ đầu thế kỷ thứ 5 như: Vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere, Vương cung thánh đường Đức Bà Antiqua và Vương Cung Thánh Đương Đức Bà Cả.

       Trong thế kỷ thứ 5, cuộc tranh luận về Maria chủ yếu xoay quanh vấn đề nên gọi Maria là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) hay chỉ là Christotokos (Mẹ của Đức Kitô). Theotokos có nghĩa là "người mang Thiên Chúa" hay "Mẹ Thiên Chúa" với ngụ ý rằng Chúa Giêsu, mà Mẹ Maria đã sinh ra, thực sự là Thiên Chúa và là Con Người trong một người. Nghĩa là có cả Thiên Tính và Nhân Tính. Trong khi đó phái Nestoriô lại ủng hộ tiêu đề Christotokos vì họ tin rằng Ngôi Hai có trước Maria, như vậy Đức Maria chỉ là mẹ của Chúa Giêsu như một con người, vì vậy gọi bà là "Mẹ Thiên Chúa" gây nhầm lẫn và có khả năng dị giáo. Công đồng Êphêsô (431) đã tuyên bố tín điều Đức Maria là Theotokos.

Giáo huấn về Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời trở nên phổ biến trên toàn thế giới Kitô giáo từ thế kỷ thứ 6 trở đi, ngày lễ kính được tổ chức vào ngày 15 tháng Tám ở cả phương Đông và phương Tây.

2/- Thời Trung Cổ

       Thời Trung Cổ có một sự phát triển đáng kể dành cho Đức Maria. Lòng sùng kính Đức Maria được hàng loạt vị thánh tôn sùng, bao gồm Thánh Ephrem người Syria, thánh Gioan Damas và thánh Bernard Clairvaux. Các thánh ca như Ave Maris Stella (Kính chào Ngôi Sao Biển) và Salve Regina (Kính chào Nữ Vương) được phổ biến và trở thành ca khúc hàng ngày trong các tu viện. Các thực hành đạo đức sùng kính Đức Mẹ cũng tăng lên đáng kể. Lời cầu nguyện với Đức Maria phổ biến nhất là Kinh Kính Mừng.

       Từ năm 1000 trở đi ngày càng có nhiều nhà thờ, trong đó có nhiều nhà thờ lớn nhất châu Âu được xây dựng dành riêng cho Đức Maria. Đền thánh Walsingham và những nơi khác trở thành những trung tâm hành hương lớn. Nhà thờ theo kiểu kiến trúc Roman như Nhà thờ Speyer (còn được gọi là Mariendom) ở Speyer, Đức và Nhà thờ Đức Mẹ Flanders ở Tournai, Bỉ. Theo kiền trúc Gothic, như Nhà Thờ Đức Bà Paris (Pháp) được xem là một kiệt tác xây dựng lớn.

       Một trong những tranh cãi lớn của thời kỳ này là thuyết Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Mặc dù sự vô tội của Đức Maria đã được thiết lập ngay trong Hội Thánh đầu tiên, nhà thần học Duns Scotus được xem là "Tiến sĩ của Đức Maria" đã lập luận về việc ủng hộ Đức Maria chí thánh được thoát khỏi tội nguyên tổ ngay từ giây phút đầu tiên Mẹ được cưu mang
[13].

        Các Đức Giáo Hoàng đã ban hành các tông huấn, lễ kính và rước kiệu tôn vinh Mẹ Maria. ĐTC Clêmntê IV (1265-1268) đã sáng tác một bài thơ bao gồm bảy niềm vui của Đức Maria, được coi như một phiên bản đầu tiên của Kinh Mân Côi.

3/- Thời Phục hưng và Cải cách

       Bắt đầu từ thế kỷ 13, rất nhiều hình tượng nghệ thuật về Đức Maria xuất hiện ở châu Âu. Thời kỳ Phục Hưng là giai đoạn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của chủ đề Maria trong nghệ thuật. Trong thời gian này, các công trình quan trọng về Đức Maria được sáng tác bởi các bậc thầy như Boticelle, Leonardo da Vinci và Raphael.

      Trong Cải Cách Tin Lành, Thánh Mẫu Học của Công giáo đã bị tấn công chưa từng có. Việc tôn sùng Đức Maria bị coi như phạm thánh và mê tín dị đoan. Dưới sự ảnh hưởng của phe đối lập thần học này, các nhà cải cách Tin Lành đã phá hủy nghệ thuật tôn giáo, tượng Đức Mẹ và các bức tranh trong các nhà thờ ở miền bắc châu Âu và nước Anh. Một số các nhà cải cách Tin Lành, đặc biệt Andreas Karlstadt, Huldrych Zwingli và John Calvin khuyến khích việc loại bỏ các hình ảnh tôn giáo dựa vào 10 điều răn trong đó cấm thờ ngẫu tượng và sản xuất các tượng mạo phạm Thiên Chúa.

         Vào giữa thế kỷ 16, Công đồng Trentô tái khẳng định truyền thống Công giáo trong việc tôn kính các ảnh tượng. Điều này dẫn đến một sự phát triển lớn về hình ảnh Đức Mẹ và nghệ thuật Thánh Mẫu trong thời kỳ Baroque. Việc thế giới Công giáo tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại Thổ Nhĩ Kỳ và giành chiến thắng dưới sự bảo trợ của Đức Maria. Đặc biệt là chiến thắng ở trận Lepanto (1571) đã đánh dấu sự hồi sinh mạnh mẽ của việc sùng kính Đức Mẹ, tập trung đặc biệt vào Đức Maria, Nữ Vương Thiên Đàng và Trái đất và vai trò quan trọng của Mẹ như là trung gian hòa giải của nhiều ân sủng".

       Linh mục Dòng Tên Francisco Suárez là thần học gia đầu tiên có những đóng góp về Thánh Mẫu Học. Ngoài ra còn có những đóng góp nổi tiếng khác như của Lawrence of Brindisi, Robert Bellarmine, Francis bán hàng. Sau 1650, tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội được Dòng Tên ủng hộ và phổ biến. Đức Phaolô V và Đức Gregory XV trị vì vào năm 1617 và 1622 đã không chấp quan điểm cho rằng Đức Trinh Nữ không nguyên tội. Đức Alexander VII tuyên bố vào năm 1661, rằng linh hồn của Mẹ Maria miễn trừ tội nguyên tổ. ĐTC Clêmentê XI đã xác lập lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội cho toàn thể Giáo hội vào năm 1708. Lễ Mân Côi đã được xác lập vào năm 1716, lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào năm 1727. Kinh Cầu Đức Bà đã được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các Đức Thánh Cha Biển Đức XIII và Biển Đức XIV.

        Giai đoạn này cũng cho thấy lòng sùng kính Đức Maria được phổ biến rộng khắp với nhiều màu sắc và đa dạng hơn bao giờ hết: Nhiều cuộc hành hương, dâng hiến cho Đức Mẹ, kinh cầu Đức Bà, các vở kịch trong nhà hát, các bài thánh ca Maria và những cuộc rước Đức Mẹ. Cũng trong khoảng thời gian này, đã có thêm rất nhiều Hiệp hội, Dòng tu được thành lập hướng về việc tôn sùng Ðức Mẹ. Nổi bật nhất là dòng Tiểu Ðệ, Tiểu Muội của thánh Louis Grignion de Montfort (1673-1716), phong trào Đạo Binh Đức Mẹ (Legion of Mary) ra đời trong thời Thế Chiến thứ nhất. Dòng Chúa Cứu Thế cũng đặc biệt hướng về Ðức Mẹ. Trong lĩnh vực nghệ thuật có các họa phẩm của Bartolome Esteban Murillo, nhạc của Domenico Scarlatti, khúc " Magnificat" lừng danh của Johann Sebastian Bach...

4/- Thời cận, hiện đại

       Khởi điểm của việc sùng kính Đức Maria trong thời kỳ này là sự kiện ĐTC Piô IX xác định tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào năm 1854. Năm 1954, Đức Thánh Cha Piô XII tuyên bố năm Thánh Mẫu và công bố tín điều Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào ngày 15 tháng 8 năm 1950.

       Giai đoạn này cũng đánh dấu hàng loạt các sự kiện liên quan đến việc hiện ra của Đức Maria. Mạc khải cho thánh Catherine Labouré ở Paris trong khoảng 1830-1836 đã làm gia tăng những việc đạo đức, ảnh Đức Mẹ Ban Ơn dâng kính Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Những lần Ðức Mẹ hiện ra với thánh Bernadette Soubirous ở 
Lộ Đức năm 1858 hay Fatima năm 1917. Ngoài ra còn có những nơi hành hương khác như Knock ở Ireland, Beauraing ở Bỉ, và ngay cả La Vang ở Việt Nam. Những nơi này đã trở thành địa điểm hành hương của người công giáo trên khắp thế giới.

        ĐTC Piô X công bố lễ kính Ðức Mẹ Lộ Ðức năm 1904. Năm 1931, Đức Piô XI chọn ngày 11 tháng 10 là ngày kính Mẫu Tâm, ngày 31 tháng 10 kính Ðức Mẹ Vô Nhiễm, ngày 31 tháng 5 để kính Nữ Vương đồng thời công bố năm Thánh Mẫu 1954. Trong Cđ Vat.II,ĐTC Phaolô VI đã công bố Ðức Maria là Mẹ Giáo hội.

        Tại Công Ðồng Vatican II, một số nghị phụ đã mong ước Công Ðồng công bố một tài liệu riêng về Ðức Mẹ, nhưng nhiều vị khác lại không đồng ý, viện lẽ rằng việc nghiên cứu Thánh Mẫu học đã trở nên quá khác biệt. Cuối cùng, tuyên ngôn về Ðức Mẹ đã được đặt chung trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội (Lumen Gentium).
                                                                                                                                                             Nguồn: Wikipedia
  1. Lòng sùng kính Mẹ Maria trong Tu Hội.
      HC. 63. Đức Trinh Nữ Maria, nữ tì khiêm hạ của Chúa, là mẫu gương lạ lùng về đức vâng phục sứ mệnh mà Ngài đã lãnh nhận trong Chúa Thánh Thần Đấng đã dẫn dắt ngài tận hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại. Ngài phải có một chỗ đặc biệt trong tâm hồn và trong đời sống của TSCG.

       Anh (chị) em hãy lấy lòng trông cậy như con thảo mà thành thực tôn sùng yêu mến Ngài bằng cách tận tình noi gương đời sống nội tâm sâu xa; lòng Tin – Cậy – Mến  tinh thần sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa; tinh thần phục vụ tha nhân cách ân cần, tế nhị của Ngài.

       Anh (chị) em hãy luôn tin tưởng cầu khẩn Ngài và phú giao đời tận hiến của chúng ta cho Ngài, vì Chúa Giêsu đã trối ban Ngài làm Mẹ chúng ta – qua Thánh Gioan – dưới chân Thánh Giá (Ga 19,27).

       NQ 65. Ngoài việc tận hiến cách riêng cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, anh (chị) còn bày tỏ lòng thảo hiếu với Mẹ trên trời bằng việc Lần hạt Mân Côi - (Mỗi ngày một chuỗi 50; Có thể áp dụng phương thức Chuỗi Mân Côi sống) – để cùng Mẹ suy niệm và sống các mầu nhiệm cuộc đời Chúa, cầu nguyện cho nhau, cho đồng nghiệp cho tội nhân và cho các linh hồn trong luyện ngục.
       TSCG thực hành việc sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt dưới tước hiệu "Maria - Hoa Hồng Nhiệm".
                                                                                                                                                   x. Luật Sống AEPS – 1999
  1. Lòng sùng kính Mẹ trong đời sống cá nhân.
1/- Đây là con Bà. Đây là Mẹ của con.
  • Chúa Giêsu đã gửi gấm chúng ta làm con Đức Mẹ qua người môn đệ Gioan khi xưa dưới chân thánh giá.
  • Sau khi được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi anh chị em chúng ta đều đã được Linh mục ban bí tích, cha mẹ, vú bõ đỡ đầu phú dâng chúng ta cho Đức Mẹ:đây là con Bà”.
  • Nhiều anh chị em đã được mặc “Áo Đức Bà Núi Carmêlô”: “đây là con Bà”.
  • Có thể nhiều anh chị em đã tham gia vào các đoàn thể khác của Đức Mẹ như: Con Đức Mẹ, Legio Mariae, Hiệp Hội Thánh Mẫu, Hội Mân Côi, Tận Hiến v.v...”đây là con Bà”.
 2/- Kể từ giờ đó, người môn đệ “rước bà về nhà mình”.

      Và Chúa Giêsu muốn chúng ta thực sự cảm nghiệm và xác tín rằng Đức Maria là Mẹ thật của chúng ta, để với tất cả tâm tình kính yêu, chúng ta “rước Mẹ về nhà mình” như anh Gioan xưa. Chúng ta phải rước Mẹ về để chăm sóc, hầu hạ, nhưng nhất là để biết nghe Mẹ hướng dẫn, dạy ta sống đức tin:
  • “ Fiat – Xin vâng”, “ Magnificat – Ngợi khen”, và “Stabat mater – Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa”
  • Phúc cho bà vì đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”, sống theo Lời dạy của Chúa,
  • Người bảo gì phải làm theo”.
      Chúng ta có thật sự tin yêu và sống thân tình với Mẹ, như một em bé: mẹ ơi, con đói; mẹ ơi, con đau bụng; mẹ ơi, con...? hay chúng ta chỉ... làm các nghi thức! chỉ đọc hết kinh này đến kinh khác, một cách vội vàng, cho mau xong, cho “hết” bổn phận...!

      Khi vào Tiểu chủng viện Mỹ Đức di cư ở gx Tấn Tài năm 1958, mẹ của Anh Hai phải ở lại Bắc vì chữ hiếu – chăm sóc bà ngoại bị bệnh – trong buổi tĩnh tâm đầu năm học, nhân bài giảng đầu năm học về đoạn Tin Mừng này; anh cảm thấy có một sự thôi thúc thầm kín trong lòng khiến Anh đã chạy đến trước ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp trong nhà thờ, quỳ gối và nức nở thưa với Đức Mẹ rằng:”Mẹ ơi, con không có mẹ, mẹ ruột con ở xa lắm, ở tận quê ngoài bắc, từ nay, xin Mẹ hãy là Mẹ của con, xin Mẹ thay Mẹ con chăm sóc cho con, mẹ nhá”. Kể từ đó đến nay, anh luôn xác tín rằng, Mẹ trên trời của anh hằng chăm sóc cho anh vô cùng tận tụy và chu đáo; chưa bao giờ anh cảm thấy thiếu thốn điều gì, cả tinh thần lẫn vật chất; cuộc sống luôn thoải mái, tâm hồn luôn bình an, mặc dù phải trải qua biết bao hiểm nguy, thăng trầm. Anh thực sự cảm nhận được cách rõ ràng Mẹ là mẹ thật của anh. Có ai dám ngờ là với 2 bàn tay trắng, anh đã được Mẹ sắp xếp cho đi nhiều nước, đến hành hương tại nhiều thánh địa của Mẹ: Lộ Đức (Pháp), Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma (Ý), Fatima (Bồ Đào Nha), Altoïting (Đức), Đức Mẹ Đen (Áo), Đức Bà Cap (Canada), Đức Mẹ Akita (Nhật)?

        Và để chứng tỏ anh thật lòng muốn đón nhận Mẹ vào cuộc đời anh, không ngày nào anh không đọc Kinh áo Đức Bà Núi Carmêlô và lần chuỗi Mân Côi (khi nhiều khi ít, nhưng tối thiểu là 1 chuỗi mỗi ngày), lặp lại các nghi thức Tận hiến cho Mẹ; đồng thời luôn tìm cách cổ võ lòng sùng kính Mẹ theo tinh thần của Thánh Grignon de Monfort, như hướng dẫn giáo dân vào Hội Áo Đức Bà, Legio Mariae, Gia đình Tận Hiến, Hội Mân Côi, Hội Đức Bà Hằng Cứu Giúp ...

        Vì thế, nhân dịp Tháng Mân côi kính Mẹ năm nay, Anh Hai mời gọi anh chị em trong Tu Hội chúng ta, một lần nữa xác tin lại ân huệ khôn lường Chúa Giêsu thương ban cho chúng ta, ơn có Đức Maria làm mẹ :”Đây là Mẹ con” để rồi, mỗi anh chị hãy thành tâm “rước Mẹ về nhà mình”, sống thân mật hiếu thảo với Mẹ, bằng cách trung thành giữ những điều chúng ta đã cam kết với Mẹ, noi gương các nhân đức của Mẹ, nhất là vâng lời Mẹ: Cải thiện đời sống và siêng naeng lần hạt Mân Côi mỗi ngày.

        Nguyện xin Mẹ ban ơn cho mỗi anh chị em cảm nghiệm được Đức Maria là mẹ thật của mỗi người chúng ta. Amen

Anh Hai
Gioan-Maria Trần minh Cương
 

Tác giả: Anh Hai Gioan-Maria

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây