ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN (1)

Thứ sáu - 02/06/2017 02:45
Tình yêu Đức Ki-tô đã quy tụ một số lớn các môn đệ nên một, để như Người và nhờ Người, trong Chúa Thánh Thần, theo dòng thời gian, họ có thể đáp lại tình yêu của Chúa Cha, bằng cách yêu mến Người ”hết lòng, hết dạ, hết sức” (x. Đnl 6,5) và yêu anh em ”như chính mình” (x. Mt 22,39).Trong số các môn đệ này, những người đã cùng nhau quy tụ thành các cộng đoàn tu trì, những người nam và người nữ ”thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9) đã và vẫn còn là biểu hiện hùng hồn của tình yêu cao siêu và vô biên này.

ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN

DẪN NHẬP

“Tình yêu Đức Ki-tô quy tụ chúng ta nên một”

1. Tình yêu Đức Ki-tô đã quy tụ một số lớn các môn đệ  nên một, để như Người và  nhờ Người, trong Chúa Thánh Thần,  theo dòng thời gian, họ có thể đáp  lại tình yêu của Chúa Cha, bằng cách  yêu mến Người ”hết lòng, hết dạ, hết sức” (x. Đnl 6,5) và yêu  anh em ”như chính mình” (x. Mt 22,39).

Trong số các môn đệ này, những  người đã cùng nhau quy tụ thành  các cộng đoàn tu trì, những người nam và người nữ ”thuộc mọi dân,  mọi chi tộc, mọi nước và mọi  ngôn ngữ” (Kh 7,9) đã và vẫn còn  là biểu hiện hùng hồn của tình yêu  cao siêu và vô biên này.

Được sinh ra ”không do ý muốn của  xác thịt”, không bởi sự hấp  dẫn cá nhân, cũng không bởi động  lực con người, nhưng bởi ”Thiên  Chúa” (Ga 1,13), do lời mời gọi và  sự lôi cuốn siêu nhiên, các cộng  đoàn tu trì là dấu chỉ sống động  về sự tối thượng của tình  yêu Thiên Chúa, Đấng làm nên những  điều kỳ diệu, và về tình yêu đối với Thiên Chúa và với  anh chị em mình như đã được  Đức Giê-su Ki-tô biểu lộ và  thực hiện.

Vì tầm quan trọng của các cộng đoàn  tu trì đối với đời sống và  sự thánh thiện của Giáo Hội, nên  cần phải tìm hiểu kinh nghiệm sống của  các cộng đoàn tu trì hôm nay, dù  là đan tu và chiêm niệm, hay dấn thân  hoạt động tông đồ, mỗi cộng  đoàn theo sắc thái riêng. Tất cả  các vấn đề được đề cập  ở đây, liên quan đến cộng đoàn dòng tu cũng được áp dụng cho  các cộng đoàn trong các tu đoàn tông  đồ, tuy vẫn tôn trọng đặc tính  và pháp chế riêng của họ.

a. Chủ đề của văn kiện liên  quan đến sự kiện này : đặc điểm  mà đời sống huynh đệ cộng  đoàn thể hiện nơi một số quốc  gia hôm nay có nhiều biến chuyển sánh  với cách thức xưa kia. Những biến  chuyển này, cũng như những hy vọng  và thất vọng kèm theo, và vẫn đang  tiếp tục, cần được suy tư dưới  ánh sáng Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Những  biến chuyển đó đã dẫn đến  những hệ quả tích cực và cả  những hệ quả cần xem xét lại. Chúng  làm sáng tỏ nhiều giá trị Tin Mừng,  do đó đem lại cho cộng đoàn tu trì  một sinh lực mới, nhưng cũng làm  nảy sinh những vấn nạn khi làm lu mờ  một số yếu tố cơ bản của chính  đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Ở một vài nơi, dưới cái nhìn  của nam nữ tu sĩ, cộng đoàn tu trì  dường như đã đánh mất tầm  quan trọng của mình và có lẽ không  còn là lý tưởng phải theo đuổi  nữa.

Với đặc tính thanh thản và cần  mẫn của những người tìm kiếm  thánh ý Thiên Chúa, nhiều cộng đoàn  đã tìm cách lượng định sự  thay đổi này để có thể đáp  trả tốt hơn ơn gọi riêng của mình  giữa Dân Thiên Chúa.

b. Có nhiều yếu tố quyết định  những thay đổi mà chúng ta đã  chứng kiến :

-- ”Không ngừng trở về nguồn mạch  của toàn thể đời sống Ki-tô  hữu và hứng khởi nguyên thuỷ  của hội dòng” (1). Cuộc gặp gỡ  sâu xa và đầy đủ hơn với  Tin Mừng và với bước đột  phá của đoàn sủng sáng lập, đã là sức thúc đẩy mãnh liệt để  tìm kiếm một tinh thần đích thực  làm sinh động tình huynh đệ, những  cơ cấu và tập quán phải thể hiện  tình huynh đệ ấy cách thích đáng.  Ở đâu việc gặp gỡ những  nguồn mạch và hứng khởi nguyên  thuỷ này có phần phiến diện hoặc  yếu kém, thì ở đó đời  sống huynh đệ gặp nguy hiểm và sa sút.

-- Tuy nhiên, tiến trình này đã xảy  ra trong bối cảnh những phát triển khác  tổng quát hơn, vốn là một bối cảnh  của cuộc sống, và đời tu không  thể tránh khỏi những hậu quả của  nó (2).

Đời tu là một thành phần sống  động của Giáo Hội và các tu sĩ  sống giữa trần thế. Các giá trị  và phản giá trị làm xáo trộn một  thời đại hay một hệ thống văn  hoá, và những cơ cấu xã hội  diễn tả chúng, đều tác động đến mọi người, kể cả Giáo  Hội và các cộng đoàn tu trì. Các  cộng đoàn tu trì hoặc làm nên men  Tin Mừng trong lòng xã hội, loan báo  Tin Vui giữa thế gian, công bố thành  Giê-ru-sa-lem trên trời ở đây  và lúc này, hoặc ngã quỵ do suy thoái  nhanh hay chậm, chỉ vì đã chạy theo trần  thế. Vì vậy, suy tư và những đề  xuất mới về ”đời sống huynh đệ  cộng đoàn” phải lưu ý đến bối  cảnh của cuộc sống này.

-- Những tiến bộ trong Giáo Hội cũng  ghi dấu sâu đậm nơi các cộng đoàn  tu trì. Công Đồng Va-ti-ca-nô II, một  biến cố của ân sủng, một biểu hiện  vĩ đại nhất nhằm hướng dẫn  mục vụ Giáo Hội trong thế kỷ này,  đã có những ảnh hưởng quyết  định về đời tu, không những  chỉ qua sắc lệnh Đức Ái trọn  hảo bàn về đời tu, mà còn  qua Giáo Hội học của Công Đồng và  từng văn kiện của Công Đồng.

Vì những lý do trên, trước khi  trực tiếp đề cập đến chủ  đề, văn kiện này bắt đầu cái  nhìn từ bối cảnh bao quát trên những  thay đổi trong các môi trường có  ảnh hưởng trực tiếp hơn đến  phẩm chất đời sống huynh đệ, và những lối sống trong các cộng  đoàn tu trì khác nhau.

 

Sự tiến triển thần học

2. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã đóng  góp rất nhiều trong việc đánh giá  lại ”Đời sống huynh đệ cộng đoàn”  và trong việc canh tân quan điểm về cộng  đoàn tu trì.

Chính sự phát triển Giáo Hội  học đã ảnh hưởng đến sự  tiến triển trong hiểu biết của chúng  ta về cộng đoàn tu trì hơn bất cứ  một yếu tố nào khác. Va-ti-ca-nô II  xác quyết rằng không thể nào chối  cãi được là đời tu thuộc  về sự sống và sự thánh thiện  của Giáo Hội, đồng thời Công  Đồng đặt đời tu vào vị trí  trung tâm của mầu nhiệm hiệp thông và  thánh thiện của Giáo Hội (3).

Như thế, cộng đoàn tu trì tham dự  vào hình ảnh về Giáo Hội được  đổi mới và đào sâu. Từ  đó dẫn đến một số kết quả  :

a. Từ Giáo Hội - Mầu nhiệm  đến chiều kích mầu nhiệm của cộng  đoàn tu trì

Cộng đoàn tu trì không đơn thuần  là một tập hợp các Ki-tô hữu  để tìm kiếm sự hoàn thiện cá  nhân. Sâu xa hơn nhiều, đó là sự  thông phần và là chứng tá đặc  biệt của Giáo Hội mầu nhiệm, bởi  vì nó là biểu hiện sống động  và là sự hoàn thành ưu việt  của ”sự hiệp thông” đặc biệt,  koinonia, của Ba Ngôi cao cả ; Chúa Cha muốn những người nam và người  nữ được dự phần vào sự  sống thông hiệp đó, trong Chúa Con và  Chúa Thánh Thần.

b. Từ Giáo Hội-hiệp thông đến  chiều kích hiệp thông huynh đệ của  cộng đoàn tu trì

Cộng đoàn tu trì, trong cơ cấu, trong những  động lực, trong những giá trị  riêng biệt của mình, làm cho hồng ân  tình huynh đệ mà Đức Ki-tô đã  ban tặng cho toàn thể Hội Thánh trở  nên hữu hình cách công khai và không  ngừng được mọi người nhận  biết. Chính vì lý do này, cộng đoàn  tu trì có bổn phận và sứ vụ  hiệp thông huynh đệ sâu sắc, dấu  chỉ và sự khích lệ cho tất cả  các Ki-tô hữu (4).

c. Từ Giáo Hội được  linh hoạt bởi các đoàn sủng đến  chiều kích đoàn sủng của cộng đoàn  tu trì

Cộng đoàn tu trì là một cơ thể  sống động của tình hiệp thông huynh  đệ, được mời gọi sống  trong sự hoạt động của đoàn sủng  nguyên thuỷ. Cộng đoàn tu trì là  một phần trong mối hiệp thông hữu  cơ của toàn thể Giáo Hội, không  ngừng được Chúa Thánh Thần  làm cho phong phú với nhiều tác vụ  và đoàn sủng.

Những người gia nhập các cộng  đoàn như thế phải có ơn gọi đặc  biệt. Trong thực tế, các phần tử  của một cộng đoàn tu trì được  liên kết với nhau do một ơn gọi  chung của Thiên Chúa phù hợp với  đoàn sủng nguyên thuỷ, do việc  cùng được Giáo Hội thánh hiến  cách đặc biệt, do việc chung nhau đáp  lại ơn gọi nhờ tham dự vào ”kinh  nghiệm của Thánh Thần” mà đấng sáng  lập đã sống và trao lại, cũng như  trong sứ vụ của đấng sáng lập  trong lòng Giáo Hội (5).

Giáo Hội cũng mong muốn tiếp nhận với  lòng biết ơn những đoàn sủng  ”tầm thường nhất và được  phú ban rộng rãi” (6) mà Thiên Chúa  đã phân phát nơi các phần tử  của Giáo Hội vì lợi ích của toàn  Thân Thể. Cộng đoàn tu trì hiện hữu  vì Giáo Hội, biểu lộ Giáo Hội và  làm phong phú Giáo Hội (7), giúp cho  Giáo Hội thực hiện tốt hơn sứ  mệnh của mình.

d. Từ Giáo Hội xét như là  bí tích hiệp nhất đến chiều kích  tông đồ của cộng đoàn tu trì

Mục đích việc tông đồ là đưa  nhân loại trở lại hiệp nhất với  Thiên Chúa và hiệp nhất với nhau  qua đức ái thần linh. Đời sống  huynh đệ cộng đoàn, một biểu lộ  của sự hiệp nhất hình thành bởi  tình yêu Thiên Chúa, ngoài việc là  một chứng từ cốt yếu của việc  loan báo Phúc Âm, còn có ý nghĩa  lớn lao đối với hoạt động  tông đồ cũng như đối với  mục đích tối hậu của nó. Chính  từ điểm này mà sự hiệp thông  huynh đệ của cộng đoàn tu trì rút  ra được sức mạnh như là dấu  chỉ và phương tiện. Thực vậy,  sự hiệp thông huynh đệ vừa là  khởi điểm vừa là đích điểm  của sứ vụ tông đồ.

Từ thời Công Đồng, huấn quyền  đã đào sâu và làm phong phú  thêm quan điểm mới về cộng đoàn  tu trì với những cái nhìn trẻ  trung (8).

Sự tiến triển trong Giáo luật

3. Bộ giáo luật (1983) phân loại và  định nghĩa những xác quyết của  Công Đồng về đời sống chung.

Khi Giáo luật nói tới ”đời sống  chung”, ta cần phải phân biệt rõ ràng  hai khía cạnh.

Trong khi Bộ giáo luật 1917 (9) dường  như cho ta cảm tưởng là tập trung  vào những yếu tố bên ngoài và một lối sống đồng nhất, thì Va-ti-ca-nô  II (10) và Bộ giáo luật mới (11)  rõ rệt nhấn mạnh đến chiều kích  thiêng liêng và đến mối dây huynh  đệ, là yếu tố hiệp nhất mọi  phần tử trong đức ái. Bộ giáo  luật mới đã tổng hợp cả hai yếu tố này khi nói “sống chung đời  huynh đệ” (12).

Như vậy, trong đời sống cộng đoàn,  có thể phân biệt hai yếu tố liên  kết và hiệp nhất các phần tử  :

yếu tố thứ nhất, có tính cách  thiêng liêng hơn : ”Tình huynh đệ” hay  ”sự hiệp thông huynh đệ”, phát xuất từ tâm hồn, do đức ái thúc  đẩy. Tình huynh đệ này nhấn mạnh  đến ”sống hiệp thông” và những  mối tương quan cá vị (13) ;

yếu tố thứ hai, có tính cách hữu  hình hơn : ”Sống chung” hay ”đời sống  cộng đoàn”, hệ tại ”sống trong một  nhà dòng đã được thiết lập  theo luật pháp” và ”đưa đến một  đời sống chung” nhờ trung thành với  chính các nguyên tắc, tham dự vào  các hoạt động chung, và cộng tác  vào các việc phục vụ chung (14).

Tất cả những điều này được  thực hiện ”theo lối sống riêng của  họ” (15) tại các cộng đoàn khác  nhau, theo đoàn sủng và luật riêng của  hội dòng (16). Từ đó phát  sinh tầm quan trọng của luật riêng ; luật  riêng phải áp dụng vào đời sống  cộng đoàn những gì thuộc về gia  sản của mỗi hội dòng và như phương  tiện để thực hiện điều đó  (17).

“Đời sống huynh đệ” hiển nhiên  không phải tự động có được  bằng việc tuân giữ các nguyên tắc  chi phối đời sống chung, nhưng rõ  ràng đời sống chung cổ võ cho đời  sống huynh đệ rất nhiều.

Sự tiến triển trong xã hội

4. Xã hội tiến hoá không ngừng,  và các tu sĩ nam nữ tuy không thuộc  về trần thế, nhưng sống trong trần thế  và chịu ảnh hưởng của trần thế.

Ở đây chúng ta sẽ đề cập  đến một vài khía cạnh đã tác  động trực tiếp đến đời  sống tu trì nói chung và cộng đoàn  tu trì nói riêng.

a. Những phong trào giải phóng chính  trị và xã hội trong thế giới  thứ ba và tiến trình đẩy mạnh  kỹ nghệ hoá đã đưa đến những  thay đổi lớn về phương diện xã  hội, nhấn mạnh đặc biệt đến  ”sự phát triển các dân tộc” và,  trong những thập niên gần đây, nhấn  mạnh đến những tình trạng nghèo  khó và khốn cùng. Các Giáo Hội địa phương đã phản ứng mạnh  mẽ khi đối đầu với những  phong trào phát triển này.

Trên hết, tại châu Mỹ La-tinh, qua các  hội nghị của Hội Đồng Giám Mục  châu Mỹ La-tinh ở Medellin, Puebla, và Santo  Domingo, ”sự chọn lựa theo Tin Mừng  và ưu tiên đứng về phía người  nghèo” (18) được đưa lên  hàng đầu, và được nhấn mạnh  trong những dấn thân xã hội.

Các cộng đoàn tu trì chịu ảnh hưởng  sâu xa bởi điều đó ; nhiều cộng  đoàn đi đến chỗ suy nghĩ lại về  sự hiện diện của mình trong xã hội,  với ý muốn trực tiếp phục vụ  người nghèo, thậm chí đôi khi  hoà nhập với người nghèo.

Cảnh khốn khổ gia tăng tràn lan ở  ngoại ô các thành phố lớn cùng  với sự bần cùng hoá các vùng  nông thôn đã thôi thúc ”việc xác  định lại vị trí” của một số  lớn các cộng đoàn tu trì hướng  đến những vùng nghèo khổ hơn  này.

Khắp nơi đều gặp phải thách đố  về hội nhập văn hoá. Các nền văn  hoá, các truyền thống và não trạng, tất cả cùng tác động đến lối  sống huynh đệ trong cộng đoàn tu trì.

Hơn nữa, trong những năm gần đây,  phong trào di dân với quy mô lớn  đã làm phát sinh vấn đề nhiều  nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại,  và vấn đề phản ứng chống lại  sự phân biệt chủng tộc. Tất cả  những sự kiện trên cũng ảnh  hưởng đến những cộng đoàn  tu trì đa văn hoá và đa chủng tộc  ngày càng trở nên phổ biến.

b. Những đòi hỏi về tự  do cá nhân và nhân quyền là cốt  lõi của cao trào dân chủ hoá, có  lợi cho sự phát triển kinh tế cũng  như cho sự phát triển xã hội dân  sự.

Vào giai đoạn tiếp liền sau Công Đồng,  tiến trình này tăng nhanh, đặc biệt  ở Tây phương, và được  đánh dấu bằng những cuộc hội  họp thảo luận về mọi vấn đề  và bằng thái độ bãi bỏ quyền  bính.

Giáo Hội và đời tu không thể  tránh khỏi phải đặt lại vấn đề  quyền bính, với những hậu quả  đáng kể đối với chính đời  sống cộng đoàn.

Sự nhấn mạnh một chiều và thái  quá đến tự do đã góp phần  làm lan tràn khắp Tây phương một  nền văn hoá cá nhân chủ nghĩa, do  đó làm suy yếu lý tưởng đời  sống chung và sự dấn thân trong các  dự phóng của cộng đoàn.

Chúng ta cũng nhận thấy những phản  ứng khác, cũng có tính cách một  chiều, như lẩn trốn vào những hình thức chuyên quyền gợi lên sự  an toàn, dựa trên lòng tin mù quáng  nơi người lãnh đạo biết cách  trấn an.

c. Sự thăng tiến nữ giới,  mà theo Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII, là  một trong những dấu chỉ của thời đại chúng ta, đã tác động nhiều  đến đời sống các cộng đoàn  Ki-tô hữu ở nhiều quốc gia khác  nhau (19). Cho dù ở một vài nơi,  đời tu bị ảnh hưởng sâu xa  bởi phong trào nữ quyền cực đoan,  nhưng hầu hết các cộng đoàn tu trì  nữ giới đều tích cực tìm  kiếm những hình thức sống chung xét  thấy hợp lý hơn đối với nhận  thức về căn tính, phẩm giá, và  vai trò của người nữ trong xã  hội, trong Giáo Hội và trong đời  tu.

d. Sự bùng nổ thông tin, bắt  đầu từ những năm 1960, đã  ảnh hưởng đáng kể và đôi  khi bi thảm, đến mức độ tổng  quát về thông tin, đến nhận thức  về trách nhiệm xã hội và tông đồ,  đến tính di động tông đồ và phẩm chất của những mối tương  quan nội tại, đó là chưa kể đến  phong cách sống đặc biệt và bầu  khí trầm lặng phải là đặc trưng  của cộng đoàn tu trì.

đ. Chủ nghĩa hưởng thụ và  chủ nghĩa khoái lạc, cùng với  sự suy yếu quan điểm đức tin,  là đặc điểm của chủ nghĩa tục  hoá, đã ảnh hưởng đến các  cộng đoàn tu trì ở nhiều nơi.  Những nhân tố này đã thử  thách ác liệt khả năng ”chống lại  sự dữ” của các cộng đoàn  tu trì, nhưng đồng thời cũng phát  sinh những phong cách sống mới nơi  đời sống cá nhân và cộng đoàn,  phong cách đó là một chứng tá  Tin Mừng rõ rệt cho thế giới chúng  ta.

Tất cả những điều này đã  là một thách đố, là lời mời  gọi sống các lời khuyên Phúc Âm  mãnh liệt hơn, đồng thời nâng  đỡ chứng tá của cộng đồng  Ki-tô hữu.

Những biến chuyển trong đời tu

5. Trong những năm gần đây, nhiều  biến chuyển đã ảnh hưởng sâu  đậm đến các cộng đoàn tu trì.

a. Một bối cảnh mới trong cộng  đoàn tu trì. Tại nhiều nước,  các chương trình quốc gia được  triển khai ở một số lãnh vực  vốn là lãnh vực hoạt động của  các tu sĩ - như công tác xã hội,  giáo dục, y tế - cùng với sự giảm sút ơn gọi, đã đưa đến  tình trạng giảm sút sự hiện diện  của các tu sĩ trong các công việc đã  từng là điển hình của các hội  dòng hoạt động tông đồ.

Như vậy, các cộng đoàn lớn đang  thu gọn phạm vi hoạt động cụ thể  vốn là nét đặc trưng của các  hội dòng từ nhiều năm nay.

Thêm vào đó, ở một vài nơi,  các cộng đoàn nhỏ được ưa  chuộng hơn, nơi đó tập hợp các  tu sĩ làm những công việc không thuộc  về hội dòng, mặc dù các hoạt động  này thường phù hợp với đoàn  sủng của hội dòng. Điều này đã  tác động một cách có ý nghĩa  đến lối sống chung và đòi hỏi  thay đổi những nề nếp trong cộng  đoàn.

Đôi khi, khát vọng chân thành muốn  phục vụ Hội Thánh và gắn bó với  các công việc của hội dòng, cộng thêm với những nhu cầu cấp bách  của Giáo Hội địa phương, có thể  làm cho các tu sĩ đảm nhận quá nhiều công việc, do đó họ chỉ dành một  ít thời gian cho đời sống chung.

b. Sự gia tăng những đòi  hỏi giúp đáp ứng những nhu  cầu khẩn thiết hơn (như người  nghèo, người nghiện ngập, người  tị nạn, người bên lề xã hội,  người tàn tật và bệnh nhân các  loại) đã khơi dậy trong đời tu  sự đáp trả và hiến thân một  cách đáng khâm phục và đáng  ca tụng.

Tuy nhiên, điều này hiển nhiên đưa  đến sự cần thiết phải thay đổi  một số hình thức truyền thống của  cộng đoàn tu trì, mà một số người  cho là không thích hợp để đối  phó với hoàn cảnh mới.

c. Cách suy nghĩ và lối sống  của các tu sĩ làm việc trong môi trường  bị tục hoá, đặc biệt khi tác vụ  được hiểu đơn thuần là một  nghề, một công tác hơn là đang thi  hành sứ vụ truyền bá Phúc Âm,  đôi khi đã làm lu mờ thực  tại thánh hiến và chiều kích siêu  nhiên của đời tu, đến nỗi đời  sống huynh đệ cộng đoàn đối với  một số người đã trở thành  chướng ngại vật cho hoạt động  tông đồ, hoặc chỉ là một công  cụ có tính cách chức năng.

d. Một quan niệm mới về con người  thành hình trong giai đoạn tiếp liền  sau Công Đồng, nhấn mạnh đến giá  trị của ngôi vị và các sáng kiến  cá nhân. Điều này trực tiếp  dẫn đến một cảm nhận sâu sắc  về cộng đoàn hiểu như đời  sống huynh đệ được xây dựng  trên phẩm chất của những mối tương  quan cá nhân hơn là trên những khía  cạnh hình thức của việc tuân giữ  kỷ luật.

Đó đây, những điểm nhấn mạnh  này trở thành triệt để (phát  sinh khuynh hướng đối lập giữa  cá nhân chủ nghĩa với cộng đồng  chủ nghĩa) đôi khi không đưa đến  sự quân bình thoả đáng.

đ. Các cơ cấu lãnh đạo mới  xuất hiện dựa vào những hiến  pháp đã được tu chính, đòi  hỏi sự tham gia nhiều hơn của các  nam nữ tu sĩ. Từ đó xuất hiện  những cách thế khác nhau khi tiếp cận  các vấn đề, qua sự đối thoại  cộng đoàn, đồng trách nhiệm và  hỗ trợ lẫn nhau. Tất cả các thành  viên đều quan tâm đến các vấn  đề của cộng đoàn. Điều này  ảnh hưởng lớn đến những  mối tương giao cá nhân, và ngược  lại, cũng ảnh hưởng đến cách  quan niệm về quyền bính. Không ít trường  hợp, quyền bính gặp phải những  khó khăn thực tế khi tìm cho mình  vị trí đúng đắn trong bối cảnh  mới.

Những đổi thay và xu hướng nói  trên kết hợp với nhau đã ảnh  hưởng sâu xa đến đặc tính  của các cộng đoàn tu trì không chỉ  trong một hình thức sâu sắc, mà còn  ở nhiều hình thức khác biệt.

Sự khác nhau đó, đôi khi khá  rõ, như ta có thể hiểu dễ dàng,  phụ thuộc vào sự khác biệt của  các nền văn hoá và địa dư, vào  các cộng đoàn nam hay nữ, vào các  dạng đời tu và hội dòng, vào  các hoạt động khác nhau và mức  độ dấn thân để duyệt lại và  hiện tại hoá đoàn sủng của đấng  sáng lập, vào những đường  hướng khác nhau để tồn tại trước  xã hội và Giáo Hội, vào cách thức  đón nhận các giá trị mà Công  Đồng đưa ra, vào những truyền  thống và hình thức khác nhau của  đời sống chung, vào các dạng thể  hiện quyền bính và cổ võ sự canh tân việc thường huấn. Những  hoàn cảnh khó khăn trên đây chỉ  có một phần chung cho tất cả ; đúng  hơn, chúng có xu hướng khác biệt  tuỳ theo cộng đoàn.

Các chủ đích của văn kiện

6. Dưới ánh sáng của những  tình huống mới, mục đích trước  hết của văn kiện này nhằm ủng hộ  những nỗ lực mà nhiều cộng đoàn  tu sĩ nam nữ đã đạt được,  hầu cải thiện phẩm chất đời  sống huynh đệ. Điều này được thực hiện nhờ trình bày một số  tiêu chuẩn nhận thức, dựa trên  quan điểm canh tân theo Tin Mừng đích  thực.

Văn kiện này cũng muốn đưa ra những  lý do để những người đã  tự tách mình ra khỏi lý tưởng  cộng đoàn suy nghĩ, giúp họ nghiêm  chỉnh xem xét lại nhu cầu sống chung huynh  đệ đối với những người  đã tận hiến cho Thiên Chúa trong một  hội dòng hay một tu đoàn tông đồ.

7. Trong những viễn tượng trên,  văn kiện có dàn bài như sau :

a. Cộng đoàn tu trì như là một hồng ân : trước khi là một dự  phóng của con người, đời sống  huynh đệ là một phần trong kế hoạch  của Thiên Chúa và Người muốn  chia sẻ đời sống hiệp thông của  Người.

b. Cộng đoàn tu trì là nơi  chúng ta trở nên anh chị em với  nhau : những con đường thích hợp  nhất để cộng đoàn tu trì xây  nên tình huynh đệ Ki-tô giáo.

c. Cộng đoàn tu trì như nơi và  chủ thể của sứ vụ : những  chọn lựa đặc biệt mà một cộng  đoàn được mời gọi thực  hiện trong các môi trường khác nhau,  và những tiêu chuẩn để phân  định.

Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông  và huynh đệ, và trước khi thực  hiện sự phân định khó khăn nhưng  cần thiết cho công cuộc canh tân chứng  tá Tin Mừng của cộng đoàn, chúng  ta phải khiêm tốn cầu khẩn Chúa Thánh Thần để Người hoàn tất điều  mà chỉ một mình Người có thể  làm : ”Ta sẽ ban tặng các ngươi một  quả tim mới, sẽ đặt Thần Khí  mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ  bỏ đi quả tim bằng đá ra khỏi thân  mình các ngươi và sẽ ban tặng các  ngươi một quả tim bằng thịt. Các  ngươi sẽ là dân của Ta. Ta sẽ là  Thiên Chúa các ngươi” (Ed 36,26-28).

Tác giả: Thánh Bộ Đời sống thánh hiến và Tu Đoàn Tông Đồ

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây