ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN (3)

Thứ sáu - 02/06/2017 02:52
Từ hồng ân hiệp thông phát sinh bổn phận xây dựng tình huynh đệ, nói cách khác, bổn phận trở thành anh chị em với nhau trong một cộng đoàn, nơi mà tất cả mọi người được kêu gọi sống chung với nhau. Do việc chấp nhận với lòng thán phục và biết ơn các thực tại hiệp thông Thiên Chúa được chia sẻ cho riêng con người, cũng phát sinh xác tín về sự cần thiết phải làm cho sự hiệp thông đó trở nên rõ ràng hơn bằng việc xây dựng những cộng đoàn ”tràn đầy niềm vui và Thánh Thần” (Cv 13,52).

CHƯƠNG II : CỘNG ĐOÀN TU TRÌ LÀ NƠI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH  ANH CHỊ EM
 

11. Từ hồng ân hiệp thông phát  sinh bổn phận xây dựng tình huynh đệ,  nói cách khác, bổn phận trở thành  anh chị em với nhau trong một cộng đoàn,  nơi mà tất cả mọi người được  kêu gọi sống chung với nhau. Do việc  chấp nhận với lòng thán phục và  biết ơn các thực tại hiệp thông  Thiên Chúa được chia sẻ cho riêng  con người, cũng phát sinh xác tín  về sự cần thiết phải làm cho sự  hiệp thông đó trở nên rõ ràng  hơn bằng việc xây dựng những  cộng đoàn ”tràn đầy niềm vui và  Thánh Thần” (Cv 13,52).

Trong thời đại chúng ta và vì thời  đại chúng ta, cần phải tái đảm  nhận công việc ”nhân thần” này trong việc xây dựng cộng đoàn anh chị  em, đang khi vẫn luôn nhớ đến những  hoàn cảnh đặc trưng của thời  đại ngày nay, trong đó sự phát  triển thần học, giáo luật, xã hội  và cơ chế đã ảnh hưởng sâu  xa đến dự phóng và đời sống  cộng đoàn tu trì.

Khởi từ một số những hoàn  cảnh cụ thể, văn kiện này muốn  trình bày những chỉ dẫn nhằm củng  cố sự dấn thân để không ngừng  canh tân các cộng đoàn theo tinh thần  Phúc Âm.

Linh đạo và việc cầu nguyện chung

12. Trong nguồn cội huyền nhiệm, mỗi  cộng đoàn Ki-tô giáo đích thực  ”chính là một thực tại đối thần, một đối tượng của sự chiêm  niệm” (28). Do đó, trên hết, cộng  đoàn tu trì là một mầu nhiệm phải  được chiêm niệm và đón nhận  với lòng ngưỡng mộ và tri ân,  trong chiều kích trong sáng của niềm tin.

Hễ khi nào chúng ta không thấy được  chiều kích huyền nhiệm và đối thần  này, chiều kích nối kết cộng đoàn  tu trì với mầu nhiệm Thiên Chúa hiệp  thông, hiện diện và truyền thông cho  cộng đoàn, tất nhiên chúng ta sẽ  đi đến chỗ quên những lý do sâu  xa ảnh hưởng đến việc “kiến tạo  cộng đoàn”, đến việc kiên trì  xây dựng đời sống huynh đệ.  Cuộc sống này đôi khi có vẻ như  vượt quá sức con người và  là một sự lãng phí sinh lực vô ích, đặc biệt đối với những  người hăng say dấn thân hoạt động  và bị chi phối bởi một nền văn  hoá duy hoạt động và cá nhân chủ  nghĩa.

Cũng một Đức Ki-tô, Đấng đã  kêu gọi họ, hàng ngày vẫn kêu gọi  các anh chị em lại với nhau để nói  với họ, để hiệp nhất họ với  chính Người và với nhau trong bí  tích Thánh Thể, đồng hoá với  Thân Thể sống động và hữu hình  của Người, nơi Chúa Thánh Thần  đang hoạt động, trong hành trình hướng  về Chúa Cha.

Việc cầu nguyện chung, vốn luôn được  xem là nền tảng của tất cả đời  sống cộng đoàn, bắt đầu từ  việc chiêm niệm mầu nhiệm vĩ đại  và siêu phàm của Thiên Chúa, từ  việc thán phục sự hiện diện của  Người, đang diễn ra trong những giây  phút ý nghĩa nhất của đời sống  các gia đình dòng tu cũng như trong những  thực tại khiêm tốn và thường  nhật của các cộng đoàn tu trì chúng  ta.

13. Để đáp lại lời Chúa  khuyên : ”hãy tỉnh thức và cầu nguyện”  (x. Lc 21,36), một cộng đoàn tu trì cần phải tỉnh thức và có thời gian  cần thiết để quan tâm đến phẩm  chất của đời sống cộng đoàn.  Đôi khi anh chị em tu sĩ ”không có thời  giờ” và ngày sống của họ có  nguy cơ trở nên quá bận rộn và  lo lắng, và cuối cùng, họ có thể  cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức.  Thực vậy, cộng đoàn tu trì được  điều chỉnh nhờ một thời khoá  biểu đều đặn ấn định thời  giờ cho việc cầu nguyện, và nhất  là nhờ đó chúng ta biết dành  thời giờ cho Thiên Chúa (vacare Deo).

Việc cầu nguyện phải được xem  như là thời gian kết hợp với  Thiên Chúa nhờ đó Người có  thể hoạt động trong chúng ta, và giữa  những lo lắng, mệt nhọc của chúng  ta, Người có thể đi vào đời  sống chúng ta, an ủi và dìu dắt, để  cuối cùng trọn cuộc sống chúng ta có  thể thuộc về Người.

14. Một trong những thành quả giá  trị nhất trong những thập niên gần  đây được mọi người nhìn  nhận và ca tụng, là việc các gia đình  tu trì tái khám phá kinh nguyện phụng  vụ.

Việc cử hành chung Các Giờ Kinh Phụng  Vụ, hay ít là một phần, đã tiếp  sinh khí cho kinh nguyện trong nhiều cộng đoàn,  một kinh nguyện được liên kết  sống động hơn với Lời Thiên  Chúa và với kinh nguyện của Giáo  Hội (29).

Vì thế, tất cả mọi người đều  phải xác tín mạnh mẽ rằng một cộng  đoàn được xây dựng khởi  từ phụng vụ, đặc biệt từ  việc cử hành bí tích Thánh Thể  (30) và những bí tích khác. Trong  số những bí tích này, nên chú  tâm lại tới bí tích Hoà Giải,  vì qua đó Thiên Chúa khôi phục sự  hiệp nhất với chính Người và  với anh chị em.

Noi gương cộng đoàn tiên khởi  ở Giê-ru-sa-lem (x. Cv 2,42), Lời Chúa,  Thánh Thể, cầu nguyện chung, tận tuỵ  và trung thành với lời giảng dạy  của các Tông Đồ và những người  kế vị các ngài : những yếu tố  ấy giúp ta tiếp xúc với những  kỳ công của Thiên Chúa ; nhờ các  cử hành cộng đoàn, những kỳ  công này trở nên rực rỡ và làm nên lời ngợi khen, cảm  tạ, vui mừng, hiệp nhất các tâm  hồn, giúp nhau chia sẻ những khó khăn  trong đời sống hằng ngày, và khuyến  khích nhau trong niềm tin.

Không may, sự giảm sút con số các  linh mục ở nơi này hay nơi khác khiến  cho việc tham dự Thánh Lễ hàng ngày  không thực hiện được. Trong những  hoàn cảnh đó, chúng ta phải quan tâm  đào tạo việc thưởng nếm những  ân huệ tuyệt vời của bí tích  Thánh Thể, và phải đặt mầu nhiệm  Mình và Máu Thánh Chúa vào chính cuộc sống của chúng ta, mầu nhiệm đang  sống và hiện diện trong cộng đoàn,  để nâng đỡ và thôi thúc  cộng đoàn trong hành trình đến với  Chúa Cha. Từ đó phát sinh sự  cần thiết là mỗi cộng đoàn tu trì  phải có nhà nguyện riêng như là  trung tâm của cộng đoàn (31), nơi  các phần tử có thể nuôi dưỡng  lòng sùng mộ Thánh Thể bằng việc  cầu nguyện và tôn thờ.

Chính xoay quanh bí tích Thánh Thể, được  cử hành hoặc tôn thờ, ”nguồn  mạch và đỉnh cao” của mọi hoạt động  trong Giáo Hội, ta kiến tạo được  sự hiệp thông các tâm hồn, sự  hiệp thông này là khởi điểm  cho tất cả sự tăng trưởng trong  tình huynh đệ. ”Tất cả mọi nền giáo  dục về tinh thần cộng đoàn đều  phải bắt đầu từ đây” (32).

15. Việc cầu nguyện chung đạt được  hiệu quả trọn vẹn khi liên kết mật  thiết với việc cầu nguyện riêng. Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện  riêng gắn bó chặt chẽ với nhau và  bổ sung lẫn nhau. Khắp nơi, nhưng đặc  biệt trong một số miền và một số  nền văn hoá, phải nhấn mạnh hơn  đến khía cạnh nội tâm, đến mối  tương quan phụ tử với Chúa Cha,  đến mối tương quan thân mật và  phu thê với Đức Ki-tô, đến  việc đào sâu những gì được  cử hành và được sống trong  kinh nguyện cộng đoàn, đến sự  thinh lặng bên trong và bên ngoài hầu  dành một khoảng không gian cho Ngôi Lời  và Thánh Thần, nhằm tái sinh những  chiều sâu kín ẩn nhất. Người  tận hiến sống trong cộng đoàn sẽ  nuôi dưỡng sự thánh hiến của  mình vừa qua việc liên tục đối  thoại cá nhân với Thiên Chúa, vừa  qua lời ngợi khen và chuyển cầu của  cộng đoàn.

16. Trong những năm gần đây, kinh  nguyện cộng đoàn đã trở nên  phong phú nhờ những hình thức  diễn tả và chia sẻ khác nhau.

Đối với nhiều cộng đoàn, sự  chia sẻ trong việc đọc và suy gẫm  Lời Chúa (lectio divina), cũng như việc chia sẻ những kinh nghiệm thiêng liêng  của cá nhân và những thao thức  tông đồ, đã nảy sinh hoa trái đặc  biệt. Sự khác biệt do tuổi tác,  do việc đào tạo và do tính tình, làm  cho cộng đoàn cần phải thận trọng  khi đòi hỏi sự chia sẻ trong toàn  thể cộng đoàn. Thiết tưởng nên  nhắc nhở rằng không thể hối thúc  thời điểm tốt được.

Ở đâu được thực hành  với tính tự phát và với sự  đồng ý chung, sự chia sẻ như thế  sẽ nuôi dưỡng đức tin, đức  cậy cũng như lòng tôn trọng và tin  tưởng lẫn nhau, giúp thực hiện  sự hoà giải và nuôi dưỡng  tình liên đới huynh đệ trong lời  cầu nguyện.

17. Lời Chúa truyền ”phải cầu nguyện  luôn và đừng nản lòng” (Lc 18,1 ;  x. Tx 5,17) có giá trị đối với việc  cầu nguyện riêng cũng như cầu nguyện  chung. Mỗi cộng đoàn tu trì đang không  ngừng sống dưới cái nhìn của  Chúa và phải luôn luôn ý thức  sự hiện diện của Người. Tuy nhiên,  kinh nguyện chung có nhịp điệu riêng  mà chu kỳ (hằng ngày, hàng tuần, hàng  tháng, hàng năm) phải được quy  định trong luật riêng của mỗi hội  dòng.

Cầu nguyện chung đòi hỏi việc trung thành  với thời khoá biểu và, trên  hết, đòi phải có sự kiên trì  ”nhờ những lời Kinh Thánh làm  cho chúng ta nên kiên nhẫn, và khích  lệ chúng ta, để nhờ đó, chúng  ta hy vọng có thể hiệp ý đồng thanh  mà tôn vinh Thiên Chúa là Thân Phụ  của Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng  ta” (Rm 15,4-6).

Lòng trung thành và sự kiên trì cũng  sẽ giúp ta khắc phục được một  số khó khăn nơi một vài cộng đoàn, một cách sáng tạo và khôn ngoan, như  những dấn thân đa dạng, và những  khó khăn do thời khoá biểu, công việc quá tải thu hút con người, và  nhiều thứ mệt nhọc khác nữa.

18. Việc cầu nguyện với Đức  Trinh Nữ Ma-ri-a, được thúc đẩy  bởi lòng yêu mến người, lòng  yêu mến dẫn chúng ta tới chỗ noi  gương người, đưa đến hiệu  quả là gương mẫu và sự hiện  diện đầy tình mẫu tử của Mẹ trở thành sức hỗ trợ lớn  lao giúp ta trung thành trong kinh nguyện hàng  ngày (x. Cv 1,14), đồng thời cũng là  mối dây hiệp thông của cộng đoàn  tu trì (33).

Mẹ Thiên Chúa sẽ giúp các cộng  đoàn trở nên giống gia đình của  Mẹ, gia đình Na-da-rét, nơi mà các cộng đoàn tu trì phải thường xuyên  thăm viếng cách thiêng liêng, vì nơi  đó Tin Mừng hiệp thông và huynh đệ  đã được sống một cách tuyệt  vời.

19. Việc cầu nguyện chung cũng nâng  đỡ và nuôi dưỡng nhiệt tình  tông đồ. Một mặt, cầu nguyện là  một năng lực biến đổi kỳ diệu  bao trùm tất cả mọi thực tại để  cứu chuộc và xếp đặt trật tự  cho thế giới. Đàng khác, nó là  sự khích lệ trong tác vụ tông đồ,  trong những niềm vui và khó khăn hàng  ngày. Như thế, tất cả những điều  này trở nên cơ hội để tìm  kiếm và khám phá ra sự hiện diện  và hoạt động của Thiên Chúa.

20. Các cộng đoàn tu trì đang hăng  say sống tinh thần tông đồ và loan báo  Phúc Âm - dù là chiêm niệm hay hoạt  động - là những cộng đoàn có  kinh nghiệm phong phú về việc cầu nguyện.  Trong thời đại của chúng ta, một  thời đại có sự thức tỉnh  trong việc tìm kiếm Đấng Siêu Việt,  thì các cộng đoàn tu trì có thể  trở thành những nơi ưu tiên, ở  đó người ta cảm nghiệm được  những nẻo đường dẫn đến  Thiên Chúa.

“Như một gia đình hiệp nhất nhân danh  Thiên Chúa, cộng đoàn tu trì tự  bản chất là nơi mà kinh nghiệm về  Thiên Chúa phải đi tới chỗ trọn  vẹn và chuyển thông cho những người  khác một cách đặc biệt” (34),  trước hết là cho các anh chị em của  mình trong cộng đoàn.

Những người nam nữ đã tận  hiến cho Thiên Chúa sẽ không gặp được  thách đố lịch sử này, nếu họ  không đáp trả việc ”tìm kiếm Thiên  Chúa” nơi những người đồng  thời với chúng ta, những người  này rồi có lẽ sẽ quay sang những  nẻo đường lầm lạc khác trong  cố gắng tìm thoả mãn cơn khát Đấng  Tuyệt Đối của họ.

Tự do cá nhân và việc xây dựng  tình huynh đệ

21. ”Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, và  như vậy là chu toàn luật Đức  Ki-tô” (Gl 6,21). Trong toàn bộ sức sống  của đời sống cộng đoàn, Đức  Ki-tô, trong mầu nhiệm Vượt Qua của  Người, trở thành mẫu mực  để xây dựng sự hiệp nhất.  Quả thực, Người là nguồn mạch, là mẫu mực và thước đo của  giới luật yêu thương : chúng ta phải  thương yêu nhau như chính Người  đã yêu thương chúng ta. Và Người  đã yêu chúng ta đến độ hiến  mình cho chúng ta. Đời sống chúng  ta là sự chia sẻ đức ái của  Chúa Ki-tô, tình yêu của người  đối với Chúa Cha và với anh em,  chị em của Người, một tình yêu quên mình.

Tuy nhiên, tất cả điều này không  nằm trong bản chất ”con người cũ”,  con người muốn sự hiệp thông  và hiệp nhất nhưng lại không muốn,  hoặc không dám trả cái giá của  sự cam kết dấn thân. Lộ trình từ  ”con người cũ” chỉ muốn đóng kín  nơi chính mình, tới ”con người mới”  trao ban chính mình cho người khác, là  một lộ trình dài và khó khăn. Các  thánh sáng lập dòng đã nhấn mạnh  một cách thực tế đến những  khó khăn và nguy hiểm của lộ trình,  bởi các ngài biết rằng cộng đoàn  không thể tự nhiên mà thành được.  Đó không phải là chuyện tự phát,  cũng không thể hoàn thành được  trong thời gian ngắn.

Để sống với nhau như là anh em và  chị em, cần phải có một cuộc hành  trình giải phóng nội tâm đích thực. Khi được giải thoát khỏi Ai-cập,  Ít-ra-en đã trở thành Dân Thiên  Chúa sau một cuộc hành trình dài qua  sa mạc dưới sự lãnh đạo của  ông Mô-sê. Cũng vậy, một cộng đoàn  tháp nhập vào Giáo Hội như là Dân  Thiên Chúa, phải được xây dựng  bằng những con người mà Chúa  Ki-tô đã giải thoát và làm cho có  khả năng yêu thương như Người  đã yêu thương, bằng hồng ân tình  yêu giải phóng của Người và  chân thành chấp nhận những người Chúa ban để hướng dẫn chúng ta.

Tình yêu Chúa Ki-tô đổ đầy tràn  lòng chúng ta, thôi thúc chúng ta yêu  thương anh em và chị em mình đến độ  nhận lấy những yếu đuối, những  vấn đề và những khó khăn của  họ. Tắt một lời : yêu đến mức  trao ban chính mình.

22. Đức Ki-tô ban cho con người  hai điều chắc chắn căn bản : chắc  chắn được yêu vô biên và  chắc chắn có khả năng yêu không  giới hạn. Ngoài Thập Giá của Đức  Ki-tô, không gì có thể ban phát đầy  đủ và dứt khoát hai điều chắc  chắn này cùng với sự tự  do bởi hai điều đó mà ra. Qua đó,  những người tận hiến dần dần thoát khỏi nhu cầu muốn là trung tâm  vũ trụ và chiếm hữu người  khác, cũng như thoát khỏi sự sợ  hãi trao ban chính mình cho anh chị em. Đúng  hơn, họ học biết yêu như Đức  Ki-tô đã yêu họ, với tình yêu  nay được đổ tràn đầy lòng  họ, làm cho họ có khả năng quên  mình và hiến mình như Chúa đã  làm.

Nhờ sức mạnh tình yêu này, cộng  đoàn xuất hiện như là một tập  hợp những con người tự do  đã được Thập Giá Đức  Ki-tô giải thoát.

23. Tuy nhiên, lộ trình giải thoát này,  lộ trình dẫn tới sự hiệp thông  trọn vẹn và sự tự do của con  cái Thiên Chúa, đòi phải can đảm  từ bỏ chính mình trong việc chấp nhận  và đón nhận tha nhân với những  giới hạn của họ, khởi đầu  từ việc chấp nhận quyền bính.

Nhiều người cho rằng điều này  tạo nên một trong những điểm yếu  của thời kỳ canh tân trong những  năm gần đây. Sự hiểu biết về  đời sống cộng đoàn đã gia  tăng, và người ta đã nghiên cứu  những khía cạnh khác nhau của đời  sống cộng đoàn. Tuy nhiên, người  ta đã ít quan tâm đến nỗ lực  khổ chế, là điều cần thiết và  không thể thay thế cho bất cứ sự  giải phóng nào nhằm biến đổi một  nhóm người trở thành một cộng  đoàn huynh đệ Ki-tô giáo.

Hiệp thông là một hồng ân cũng  đòi hỏi lời đáp trả, đòi  hỏi kiên trì học hỏi và kinh nghiệm  chiến đấu, hầu thắng vượt những  thái quá trong bản năng và tính thất  thường trong các ước muốn. Lý  tưởng cao nhất của cộng đoàn  tất nhiên kèm theo sự hoán cải từ  mỗi một thái độ trái ngược  với sự hiệp thông.

Cộng đoàn mà không có tính cách  huyền nhiệm thì không có hồn ; nhưng  cộng đoàn không có khổ chế thì  không có xác. Cần phải có ”sự  phối hợp” giữa hồng ân của Thiên  Chúa và dấn thân cá nhân để  xây dựng sự hiệp thông nhập  thể, nói cách khác, để trao ban một  bộ mặt cụ thể cho ân sủng và hồng  ân hiệp thông huynh đệ.

24. Phải nhìn nhận rằng kiểu lập  luận trên gây ra khó khăn đối với  cả người trẻ lẫn người trưởng  thành hôm nay. Thường thường người  trẻ đến từ nền văn hoá đánh  giá cao tính chủ quan và tìm kiếm sự  tự mãn, trong khi những người  trưởng thành hoặc bị ràng buộc  bởi những cơ cấu quá khứ,  hoặc bởi kinh nghiệm chán ngấy những  cuộc hội họp kéo dài vô tận, nguồn  gốc của tật dài lời và không  xác thực vẫn thịnh hành cách đây ít năm.

Nếu quả thực là không thể có  sự hiệp thông mà không có sự  tự trao hiến của mỗi phần tử,  thì ngay từ đầu, cần phải dẹp  bỏ ảo tưởng cho rằng mọi sự  phải đến từ những người  khác, và cần phải giúp mỗi người khám phá ra, với lòng biết ơn, tất  cả những gì mình đã nhận lãnh  và thực sự đang nhận lãnh từ  tha nhân. Ngay từ đầu, nhất thiết  phải chuẩn bị để mình không phải  chỉ là ”khách hàng” của cộng đoàn,  nhưng trên hết, phải là những người  xây dựng cộng đoàn ; những người  có trách nhiệm đối với sự  thăng tiến của anh chị em ; những người  cởi mở và có khả năng lãnh  nhận hồng ân của người khác  ; những người có thể giúp đỡ  và được giúp đỡ ; những  người có thể thay thế và có  thể được thay thế.

Đời sống cộng đoàn huynh đệ  và chia sẻ tự nhiên có sức cuốn  hút người trẻ, nhưng về sau, sự  kiên trì trong những điều kiện thực  tế của đời sống có thể trở  thành gánh nặng. Do đó, việc huấn  luyện khởi đầu cần giúp người  trẻ ý thức những hy sinh phải có  để sống cộng đoàn, để chấp  nhận những hy sinh đó trong mối tương  quan huynh đệ vui tươi và chân thành,  và với tất cả những thái độ  khác là đặc trưng của người  tự do nội tâm (35). Khi chúng ta chịu  bỏ mình vì anh chị em, thì chúng ta tìm  lại được chính mình.

25. Phải luôn luôn nhớ rằng sự  thành toàn người tu sĩ nam hay nữ  đạt được đều qua cộng đoàn  của mình. Ai thử cố sống một cuộc  đời tự lập, tách biệt khỏi  cộng đoàn, chắc chắn không gặp được  con đường an toàn dẫn tới sự  trọn lành của bậc mình.

Trong khi xã hội Tây phương cổ võ  con người tự lập, con người  có thể một mình đạt được  sự thành công cá nhân, con người  theo chủ nghĩa cá nhân tự tín, thì Tin Mừng đòi hỏi những con người,  giống như hạt lúa mì, phải biết  chết đi cho chính mình để làm nảy  sinh đời sống huynh đệ (36).

Như thế, cộng đoàn trở thành  ”Schola Amoris”, trường dạy yêu mến,  cho người trẻ cũng như cho người trưởng thành - trong trường học  này, mọi người học biết yêu  mến Thiên Chúa, yêu mến người  anh em, chị em chung sống với mình, và  yêu mến đồng loại, những người  đang rất cần đến lòng thương xót  của Thiên Chúa và tình liên đới  huynh đệ.

26. Lý tưởng cộng đoàn không  được làm chúng ta mù quáng trước  sự kiện này là mọi thực tại  Ki-tô giáo được xây dựng  trên sự mỏng manh yếu đuối của  con người. Chưa có ”một cộng đoàn  lý tưởng” : sự hiệp thông hoàn  hảo của các thánh là mục tiêu của  chúng ta ở Giê-ru-sa-lem trên trời.

Thời của chúng ta bây giờ là  thời khởi công và kiên trì xây  dựng. Chúng ta luôn luôn có thể  cải thiện và cùng nhau đi tới một  cộng đoàn khả dĩ sống trong tha thứ  và yêu thương. Các cộng đoàn  không thể tránh được hết mọi  xung đột va chạm. Sự hiệp nhất mà  chúng ta phải xây dựng là sự  hiệp nhất được thiết lập bằng  cái giá của sự hoà giải (37).  Sự bất toàn trong cộng đoàn không  được làm chúng ta nản chí.

Mỗi ngày, cộng đoàn lại lên đường,  được giáo huấn của các Tông  Đồ nâng đỡ : ”Hãy thương mến  nhau với tình huynh đệ ; coi người  khác trọng hơn mình” (Rm 12,10) ; ”Hãy đồng  tâm nhất trí với nhau” (Rm 12,16) ; ”Hãy  đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã  đón nhận anh em” (Rm 15,7) ; ”Tôi tin chắc  rằng ... anh em ... có khả năng khuyên bảo  nhau” (Rm 15,14) ; ”Anh em hãy chờ nhau” (1 Cr 11,33)  ; ”Hãy đem lòng yêu thương mà làm  tôi lẫn nhau” (Gl 5,13) ; “Hãy an ủi nhau” (1  Tx 5,11) ; ”Hãy lấy tình bác ái mà chịu  đựng lẫn nhau” (Ep 4,2) ; ”Phải có lòng  thương xót và biết tha thứ cho nhau”  (Ep 4,32) ; ”Vì lòng kính sợ Đức  Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep  5,21) ; ”Hãy cầu nguyện cho nhau” (Gc 5,16) ; ”Anh  em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau” (1 Pr 5,5) ; ”Chúng  ta được hiệp thông với nhau” (1  Ga 1,7) ; ”Khi làm điều thiện, chúng ta đừng  nản chí ... nhất là cho những anh em cùng  trong đại gia đình đức tin” (Gl 6,9-10).

27. Có lẽ hữu ích khi nhắc lại  rằng : để nuôi dưỡng sự hiệp  thông tâm trí giữa những người  được gọi chung sống trong một cộng  đoàn, nhất thiết phải trau dồi những  đức tính cần có trong tất cả  các mối quan hệ nhân bản : sự kính  trọng, lòng tốt, sự chân thành,  tự kiềm chế, lịch thiệp, biết khôi  hài và tinh thần chia sẻ.

Những tài liệu mới đây của  Huấn quyền có nhiều gợi ý và  chỉ dẫn phong phú cho đời sống cộng  đoàn như : đơn sơ vui vẻ (38),  thẳng thắn và tín nhiệm lẫn nhau (39),  có khả năng đối thoại (40), và  thành tâm chấp nhận kỷ luật tốt  lành của cộng đoàn (41).

28. Cuối cùng, chúng ta không được  quên rằng, sự bình an và hoan lạc  trong đời sống chung là những dấu  chỉ của Nước Thiên Chúa. Niềm  vui sống cả giữa những khó khăn  gặp phải trên hành trình thiêng liêng  và nhân bản, và cả giữa những  phiền muộn hàng ngày cũng đã là  một phần của Nước Trời. Niềm  vui này là hoa trái của Chúa Thánh Thần,  và bao gồm một đời sống đơn  giản và kết cấu đơn điệu thường  nhật. Tình huynh đệ không có niềm  vui là tình huynh đệ đang chết ; sớm  muộn, các thành viên sẽ bị cám  dỗ đi tìm ở nơi khác điều mà họ không thể tìm thấy trong cộng  đoàn của mình. Một tình huynh đệ  đầy niềm vui là ân huệ từ trên  ban cho anh em, chị em là những người  biết cầu xin và biết chấp nhận nhau,  phó thác cho đời sống huynh đệ,  tin tưởng vào hành động của Chúa  Thánh Thần. Do đó, lời Thánh vịnh  đã được ứng nghiệm : ”Ngọt  ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được  sống vui vầy bên nhau ... Nơi đây ân  huệ Chúa ban, chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 132,1-3) ; ”Bởi vì,  khi chung sống với nhau như anh em, họ được  liên kết trong sự hiệp nhất của  Giáo Hội ; họ chỉ có một tâm hồn  trong đức ái, một ý muốn” (42).

Chứng từ niềm vui là sự lôi  cuốn mãnh liệt vào đời sống  tu trì, là nguồn phát sinh những ơn  gọi mới, và khích lệ bền đỗ.  Điều rất quan trọng là phải nuôi  dưỡng niềm vui như thế trong cộng  đoàn tu trì : làm việc quá sức  có thể huỷ diệt niềm vui, nhiệt tình  quá độ vì những nguyên do nào  đó có thể đưa một số người  tới chỗ quên lãng niềm vui, việc  không ngừng tự phân tích căn  tính và tương lai của mình cũng có  thể che khuất niềm vui.

Có thể vui sống với nhau ; dành thời  gian cho việc giải trí cá nhân và tập  thể ; thỉnh thoảng tạm dừng công việc một chút ; chia sẻ niềm vui nỗi  buồn của anh em, chị em mình ; tin tưởng  dấn thân làm việc tông đồ ; trắc ẩn trước mọi tình huống ; nhìn  về ngày mai với niềm hy vọng gặp  gỡ Thiên Chúa mọi lúc và mọi  nơi : đó chính là những nhân tố  nuôi dưỡng sự thanh thản, bình  an và niềm vui : những nhân tố này  trở thành sức mạnh trong hoạt động  tông đồ.

Niềm vui là chứng từ rực rỡ  cho phẩm chất Tin Mừng của cộng đoàn  tu trì ; nó là đích điểm của một cuộc hành trình đầy gian lao, nhưng vẫn  có thể hoàn tất vì được nâng  đỡ nhờ lời cầu nguyện : ”Hãy  vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ  kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên  cần cầu nguyện” (Rm 12,12).

Truyền thông để cùng nhau thăng tiến

29. Trong công cuộc canh tân vào những  năm gần đây, vấn đề truyền thông  được coi là một trong những yếu  tố nhân bản càng ngày càng có tầm  quan trọng đối với đời sống  cộng đoàn tu trì. Nhu cầu nâng cao đời sống huynh đệ trong cộng đoàn được  cảm nhận sâu xa, kèm theo một nhu cầu  tương ứng với sự truyền thông vừa rộng lớn, vừa mạnh mẽ  hơn.

Để trở nên anh em, chị em với  nhau, cần phải hiểu biết nhau. Để hiểu  biết nhau thì điều rất quan trọng là phải truyền thông nhiều hơn và sâu  sắc hơn. Ngày nay, người ta đã  chú ý hơn tới những khía cạnh  khác của sự truyền thông, mặc dù  hình thức và cấp độ có thể  thay đổi giữa hội dòng này với  hội dòng khác, giữa miền này với  miền kia.

30. Truyền thông ở trong nội bộ  các hội dòng đã phát triển đáng  kể. Những cuộc hội họp thường  lệ giữa những thành phần thuộc  các cấp bậc khác nhau, cấp trung ương,  cấp miền, cấp tỉnh dòng đã gia tăng  : các bề trên thường gửi những  thư từ và nhắc nhở, và những  cuộc thăm viếng các cộng đoàn thường  xuyên hơn. Việc xuất bản các thông  tin và nội san định kỳ cũng phổ  biến hơn.

Loại truyền thông rộng rãi này ở  những cấp độ khác nhau tương ứng  với đặc tính riêng của từng  hội dòng, thường tạo nên những  mối liên hệ gần gũi hơn, nuôi dưỡng  tinh thần gia đình và sự chia sẻ mối  quan tâm của toàn thể hội dòng, giúp  nhạy cảm hơn đối với các vấn  đề chung, và đem các tu sĩ lại gần  nhau hơn quanh sứ vụ chung của họ.

31. Những cuộc hội họp thường  lệ ở cấp độ cộng đoàn, thường  theo nhịp độ hàng tuần, cũng tỏ  ra rất hữu ích ; những buổi gặp  gỡ này giúp các thành viên chia  sẻ các vấn đề liên quan đến  cộng đoàn, đến hội dòng, đến  Giáo Hội, và các tài liệu quan trọng  của Giáo Hội. Chúng tạo cơ hội để  lắng nghe nhau, chia sẻ những ý nghĩ riêng  của mỗi người, nhìn lại và đánh  giá những kinh nghiệm quá khứ, và  cùng nhau suy nghĩ và thảo kế hoạch.

Những cuộc họp mặt như thế đặc  biệt cần thiết cho sự thăng tiến  và phát triển đời sống huynh đệ,  nhất là trong những cộng đoàn rộng  lớn. Phải dành riêng thời giờ  cho mục đích này và tránh tất cả  những công việc khác. Thêm vào việc  quan tâm tới đời sống cộng đoàn,  những cuộc hội họp này cũng quan trọng để thực thi tinh thần đồng  trách nhiệm và sắp đặt công việc  không những trong bối cảnh của đời  sống cộng đoàn, mà còn trong cơ cấu  rộng lớn hơn của đời sống  tu trì, đời sống Giáo Hội và  đời sống thế giới mà chúng  ta được sai đến thi hành sứ  vụ. Đây là con đường mà mỗi  cộng đoàn phải theo đuổi, thích nghi  nhịp điệu và đường hướng  với chiều kích của cộng đoàn  và những dấn thân của các phần  tử, đồng thời tôn trọng lối  sống riêng của các cộng đoàn chiêm  niệm.

32. Nhưng còn hơn thế nữa. Ở  nhiều nơi người ta cảm thấy có  nhu cầu truyền thông mật thiết hơn giữa các tu sĩ chung sống trong cùng một cộng  đoàn. Sự thiếu sót hay giảm sút  truyền thông thường dẫn tới sự  suy giảm tình huynh đệ ; nếu chúng ta  biết ít hay không biết gì về đời  sống của anh em hay chị em mình, thì họ  sẽ là những người xa lạ với  chúng ta, mối liên hệ sẽ trở nên  vô danh, đồng thời tạo nên những  vấn đề thực tế của cảnh cô  lập và cô đơn. Một số cộng đoàn  phàn nàn về phẩm chất nghèo nàn  trong việc chia sẻ cơ bản những tài  sản tinh thần : truyền thông chỉ diễn  ra chung quanh những vấn đề và những  khó khăn thứ yếu mà hiếm khi chia  sẻ về những gì sống động và  cốt lõi của hành trình thánh hiến.

Những hậu quả này có thể tệ  hại, vì lúc đó kinh nghiệm thiêng  liêng một cách vô tình sẽ mang màu  sắc cá nhân. Tâm trạng tự mãn  trở nên quan trọng hơn ; thái độ  thiếu nhạy cảm với những phát  triển của người khác ; và rồi  dần dần người ta đi tìm kiếm những  mối quan hệ có ý nghĩa ở bên  ngoài cộng đoàn.

Vấn đề này cần được đề  cập tới một cách rõ ràng. Một  mặt, nó đòi hỏi một đường  lối khéo léo và thận trọng mà không  phải dùng đến áp lực ; nhưng  mặt khác, cũng đòi hỏi lòng can đảm và óc sáng tạo, tìm kiếm những cách thức và phương pháp  khả dĩ giúp mọi người học chia  sẻ những hồng ân của Thần Khí  cách đơn sơ và đầy tình huynh đệ,  để những hồng ân này có thể  thực sự thuộc về tất cả và  là phúc lợi cho tất cả (x. 1 Cr 12,7).

Sự truyền thông nảy sinh nhất là  trong việc chia sẻ các hồng ân của Thần  Khí, chia sẻ đức tin và trong đức  tin, ở đâu chúng ta càng chia sẻ  những điều cốt lõi và sống động,  ở đó mối dây huynh đệ càng  lớn mạnh. Loại truyền thông này  có thể hữu ích để học cách  chia sẻ, cho phép các phần tử, trong  tác vụ tông đồ riêng của họ,  ”tuyên xưng đức tin” qua những ngôn  từ đơn giản và sáng sủa mà  mọi người đều có thể hiểu  biết và yêu chuộng.

Có nhiều cách thức chia sẻ và truyền  thông các ân huệ thiêng liêng. Ngoài  những cách đã nêu lên (chia sẻ Lời Thiên Chúa và cảm nghiệm  về Thiên Chúa, chia sẻ nhận định  chung, những dự phóng chung) (43),  chúng ta nên nhắc đến việc sửa  lỗi huynh đệ, kiểm điểm đời  sống và những hình thái đặc thù  theo truyền thống. Đây là những cách  thế cụ thể nhằm phục vụ người  khác và đổ tràn vào cộng đoàn  những hồng ân mà Thánh Thần ban tặng dồi dào nhằm phát triển cộng  đoàn và sứ vụ của cộng đoàn  trong thế giới.

Ngày nay, tất cả những điều này  có tầm quan trọng hơn một khi các cộng  đoàn thường bao gồm các tu sĩ khác nhau về tuổi tác và chủng tộc,  các phần tử được đào  tạo với nền giáo dục về văn  hoá và thần học khác nhau, những  tu sĩ đã có những kinh nghiệm khá  dị biệt trong những năm biến động  và đa nguyên này.

Không có đối thoại và lắng nghe,  các phần tử trong cộng đoàn có  nguy cơ sống một cuộc đời kề  cận hoặc song hành, một khoảng cách  xa với lý tưởng huynh đệ.

33. Mỗi hình thức truyền thông đều  bao hàm những đường lối và  những khó khăn tâm lý đặc biệt,  cũng có thể được sự hỗ  trợ tích cực của các khoa học  nhân văn. Chẳng hạn, một số cộng  đoàn đã lợi dụng sự giúp đỡ của các chuyên gia về truyền  thông, và các chuyên viên trong lãnh  vực tâm lý hay xã hội.

Đây là những biện pháp ngoại  lệ cần được đánh giá một  cách thận trọng, và chúng có thể  được sử dụng hạn chế để  phá đổ những bức tường  ngăn cách đôi khi được dựng  lên ngay trong cộng đoàn. Các kỹ thuật nhân loại này hữu ích nhưng không  đủ. Tất cả chúng ta phải quan tâm  tới phúc lợi của anh em, chị em mình, phát triển khả năng phúc âm để  đón nhận được từ tha nhân  tất cả những gì họ muốn hiến  tặng và chuyển trao, và tất cả những  gì họ thực sự chuyển trao bằng  chính đời sống của họ.

Anh em hãy ”có cùng một cảm nghĩ, cùng  một lòng mến, cùng một tâm hồn,  cùng một ý hướng như nhau ... Hãy  lấy lòng khiêm nhường mà coi người  khác hơn mình. Mỗi người đừng  tìm lợi ích riêng cho mình, nhưng hãy  tìm lợi ích cho người khác.” Những  quan hệ hỗ tương của anh em phải đặt  nền tảng trên sự thật này là  anh em đã được hiệp nhất với  Đức Ki-tô (x. Pl 2,2-5).

Trong bầu khí như vậy, những kỹ thuật  và những đường hướng khác  nhau nhằm sự truyền thông thích hợp  với đời sống tu trì có thể  giúp thăng tiến tình huynh đệ.

34. Ảnh hưởng đáng kể của  các phương tiện truyền thông đại  chúng đối với đời sống và  não trạng hiện đại cũng có hiệu  quả trên các cộng đoàn tu trì, và  thường xuyên tác động tới  sự truyền thông nội bộ.

Ý thức được ảnh hưởng  của các phương tiện truyền thông  đại chúng, cộng đoàn nên học  sử dụng để cá nhân và cộng  đoàn được thăng tiến, với  sự trong sáng của Phúc Âm và tự  do nội tâm của những con người  đã được biết Đức Ki-tô  (x. Gl 4,17-23). Những phương tiện truyền  thông đề xuất, và thường áp  đặt, một não trạng hay một lối sống  phản lại Tin Mừng. Về vấn đề này, ở nhiều nơi, người ta mong  muốn được đào tạo kỹ lưỡng  hơn để tiếp nhận và sử dụng  các phương tiện truyền thông một  cách vừa có phê phán vừa hữu  ích. Tại sao không làm cho các phương  tiện truyền thông trở thành đối  tượng để lượng giá, để  phân định và để thảo kế hoạch  trong các cuộc hội họp định kỳ của  cộng đoàn ?

Đặc biệt, khi truyền hình trở thành  hình thức giải trí duy nhất thì những  mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đoàn bị cản trở, thậm  chí bị chặn đứng, sự truyền  thông huynh đệ bị giới hạn, và  chính đời sống thánh hiến cũng  có thể bị tổn thương.

Cần phải có sự quân bình đúng  mức : việc sử dụng điều độ  và thận trọng các phương tiện truyền  thông đại chúng (44) cùng với  sự cân nhắc của cộng đoàn, có  thể giúp cộng đoàn hiểu biết sự  phức tạp của thế giới văn hoá  hơn, tiếp nhận các phương tiện truyền  thông với ý thức và cái nhìn  sáng suốt, và cuối cùng, đánh giá ảnh hưởng của các phương tiện  ấy trong tương quan với các tác vụ  khác nhau khi phục vụ Tin Mừng.

Để phù hợp với việc lựa  chọn bậc sống đặc biệt biểu thị  bằng sự cách biệt thế gian, các  cộng đoàn chiêm niệm nên tự  buộc mình nhiều hơn vào việc duy trì  một bầu khí hồi tâm, được  hướng dẫn bởi những quy tắc  xác định trong hiến pháp riêng về  việc sử dụng các phương tiện  truyền thông xã hội.

Cộng đoàn tu trì và sự thăng  tiến cá nhân

35. Vì cộng đoàn tu trì là ”Trường  dạy yêu mến” (Schola Amoris) giúp con người  lớn lên trong tình yêu đối với  Thiên Chúa và đối với anh chị  em, nên cũng là nơi cho con người  được triển nở. Con đường  triển nở là một con đường  cam go, vì đòi hỏi sự từ bỏ  những điều nào đó có giá  trị cao (45), nhưng không phải là không thể thực hiện được. Đông  đảo các thánh nam nữ và những  khuôn mặt diệu kỳ của các tu sĩ  nam nữ minh chứng rằng sự thánh  hiến cho Đức Ki-tô ”không tạo nên  một chướng ngại nào cho sự phát  triển con người thực sự, nhưng  tự bản chất là một phúc lợi  tột bực cho sự phát triển đó”  (46).

Con đường tiến đến sự trưởng  thành nhân bản, điều tiên quyết  cho đời sống Phúc Âm sáng ngời,  là một tiến trình không có giới  hạn, vì nó bao hàm sự gia tăng liên  tục không những các giá trị tinh  thần, mà cả những giá trị thuộc  lãnh vực xã hội, văn hoá và  tâm lý (47).

Thực tế, trong những năm gần đây,  những thay đổi lớn trong văn hoá  và phong tục hướng đến những thực tại vật chất nhiều hơn là  những giá trị tinh thần. Điều đó  làm cho chúng ta thấy cần phải quan tâm  đến một số lãnh vực mà ngày  nay con người hình như dễ bị tổn  thương một cách đặc biệt.

36. Căn tính

Tiến trình trưởng thành diễn ra trong  sự đồng hoá mình với lời  mời gọi của Thiên Chúa. Sự kém  ý thức về căn tính có thể dẫn  tới ý tưởng sai lầm về sự  hoàn thiện bản thân, đặc biệt là  vào những thời điểm khó khăn, với đòi hỏi thái quá là phải  có những thành quả tích cực và  được người khác chấp nhận,  sợ hãi quá đáng về sự bất  toàn, và chán nản do thất bại gây  ra.

Căn tính của người thánh hiến  tuỳ thuộc vào sự trưởng thành  tâm linh ; đây là công việc của  Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy  chúng ta nên đồng hình đồng dạng  với Đức Ki-tô, bằng cách thức  đặc biệt được ban tặng qua ”đoàn  sủng sáng lập, đoàn sủng này là hình thức sống Tin Mừng của các  phần tử trong hội dòng” (48). Vì lý do đó, rất cần sự giúp đỡ  của người hướng dẫn tâm linh,  người hiểu biết sâu xa và tôn  trọng linh đạo và sứ vụ của  hội dòng. Một người như thế sẽ  ”phân định được hành động  của Thiên Chúa, đồng hành với  tu sĩ trong đường lối của Thiên  Chúa, nuôi dưỡng đời sống  bằng giáo thuyết vững vàng và bằng  thực hành cầu nguyện” (49). Sự  đồng hành này đặc biệt cần thiết  trong giai đoạn đào tạo sơ khởi,  nhưng vẫn ích lợi trong suốt cuộc đời, để nuôi dưỡng ”sự  thăng tiến hướng đến sự sung  mãn của Đức Ki-tô”.

Sự trưởng thành về văn hoá  cũng giúp con người đương đầu  với những thách đố của sứ  vụ nhờ tiếp nhận những phương  thế cần thiết để phân định những  trào lưu tiến hoá và thực hiện  những đáp trả tương xứng,  trong đó Tin Mừng luôn được  đưa ra như một đề xướng để  lựa chọn trước những gọi  mời của trần thế, Tin Mừng hội  nhập những sức mạnh tích cực  của trần thế và thanh tẩy chúng khỏi  men ác thần.

Nhờ động lực này, con người  thánh hiến và cộng đoàn tu trì là  một cách bày tỏ Tin Mừng, một biểu  lộ sự hiện diện của Đức  Ki-tô trong thế giới (50).

37. Tình cảm

Đời sống huynh đệ cộng đoàn  đòi hỏi mọi phần tử phải có  sự quân bình về tâm lý, là điều  kiện để đạt được sự  trưởng thành về tình cảm. Như  đã nói ở trên, một yếu tố  nòng cốt của sự trưởng thành  là sự tự do về mặt tình cảm,  giúp những người thánh hiến có  thể yêu mến ơn gọi của mình và  yêu mến sao cho phù hợp với ơn gọi. Chính sự tự do và sự  trưởng thành này giúp chúng ta sống  đời sống tình cảm một cách đúng  đắn cả ở bên trong lẫn bên ngoài  cộng đoàn.

Yêu mến ơn gọi của mình, nhận thức  ơn gọi đem lại ý nghĩa thật cho cuộc  sống, và yêu mến sự thánh hiến như là một thực tại đích thực,  đẹp đẽ và tốt lành, đem lại  chân thiện mỹ cho cuộc sống của mình,  tất cả những điều đó làm  cho con người trở nên mạnh mẽ,  tự lập và an toàn trong căn tính  của mình, không cần đến những hình thức nâng đỡ và bù trừ  khác, đặc biệt trong lãnh vực tình  cảm. Tất cả những điều này củng  cố mối dây liên kết con người  tận hiến với những người  cùng chia sẻ ơn gọi mình, nam hoặc nữ.  Trước hết và trên hết, chính  là với họ, mà người tận  hiến cảm thấy được kêu gọi  để sống liên đới trong tình huynh  đệ và tình bằng hữu.

Yêu mến ơn gọi của mình là yêu  mến Giáo Hội, là yêu mến hội dòng  của mình, và cảm nghiệm cộng đoàn như là gia đình riêng của mình.

Yêu mến phù hợp với ơn gọi  của mình là yêu mến theo cách thức  của một người, mà trong mỗi một  mối tương quan nhân bản, ước mong  trở nên dấu chỉ rõ ràng của  tình yêu Thiên Chúa, không xâm lấn  cũng không chiếm hữu, nhưng yêu thương  và ước mong điều tốt lành cho  kẻ khác với lòng nhân từ của  Thiên Chúa.

Vì vậy, cần có sự huấn luyện  đặc biệt trong lãnh vực tình cảm  để giúp hoà hợp khía cạnh nhân  loại với khía cạnh thiêng liêng cách  đặc biệt hơn. Về phương diện này,  những nguyên tắc chỉ đạo trong  văn kiện ”Những chỉ dẫn về việc  huấn luyện trong các hội dòng” (51)  liên quan đến việc phân định ”sự  quân bình tình cảm, đặc biệt là  sự quân bình về tính dục” và  ”khả năng sống trong cộng đoàn” là  những điểm đặc biệt thích hợp.

Tuy nhiên, những khó khăn trong lãnh  vực này thường là âm hưởng  từ những vấn đề nảy sinh trong những lãnh vực khác : tình cảm  và tính dục mang tính cách tự ái  và ấu trĩ hoặc bị dồn nén khắt  khe, đôi khi có thể là hậu quả của  những kinh nghiệm tiêu cực trước  khi gia nhập cộng đoàn, nhưng cũng có  thể là hậu quả của những khó  khăn trong cộng đoàn hay trong tác vụ  tông đồ. Như thế, một đời  sống đậm đà và ấm áp tình huynh đệ, một cuộc sống ”mang đỡ  gánh nặng” của anh chị em bị tổn thương  đang cần sự trợ giúp là điều  đặc biệt quan trọng.

Trong khi cần có một sự trưởng  thành nào đó để có thể sống  cộng đoàn, thì một đời sống  huynh đệ thân ái cũng cần thiết  để tu sĩ đạt được sự  trưởng thành. Ở đâu các phần  tử trong cộng đoàn nhận thấy nơi  anh em hay chị em mình sự trưởng thành  tình cảm đã suy giảm, thì cộng đoàn  phải đáp ứng bằng một tình yêu  phong phú và nhân bản, giống như tình  yêu của Chúa Giê-su và của nhiều  tu sĩ thánh thiện, một tình yêu chia sẻ  những lo âu lẫn vui mừng, khó khăn  lẫn hy vọng, với tình yêu nồng ấm  đó, một con tim mới biết cách chấp  nhận toàn thể con người. Tình yêu  như thế - một tình yêu biết quan tâm  và tôn trọng, vô vị lợi hơn  là chiếm hữu - sẽ làm cho tình yêu  Thiên Chúa nên rất gần gũi : đó  là tình yêu đã khiến Con Thiên Chúa  công bố qua thập giá rằng, chúng ta  không được nghi ngờ là chúng  ta đã được yêu thương bởi  Đấng là Tình Yêu.

38. Những khó khăn

Một cơ hội đặc biệt cho sự thăng  tiến con người và sự trưởng  thành Ki-tô hữu là việc sống với  những con người đau khổ, những  người cảm thấy không thoải mái  trong cộng đoàn, và vì vậy, họ là  duyên cớ gây đau khổ cho người  khác và gây xáo trộn trong đời  sống cộng đoàn.

Trước tiên, chúng ta phải tìm nguồn  gốc của sự đau khổ đó. Đau  khổ có thể xảy ra do khiếm khuyết về tính tình, những ràng buộc hình như  quá nặng nề, những thiếu sót nghiêm  trọng trong việc đào tạo, những biến chuyển quá nhanh trong những năm gần  đây, những hình thức cai trị quá  độc đoán, hoặc những khó khăn  về tâm linh.

Có thể có một vài tình huống mà  người có thẩm quyền phải nhắc  nhở các phần tử của mình rằng  : đời sống chung đôi khi đòi hỏi  sự hy sinh và có thể trở thành  một hình thức sám hối rất quan trọng,  maxima poenitentia.

Trong vài trường hợp, cần nhờ  đến các khoa học xã hội, đặc  biệt những hoàn cảnh mà cá nhân  rõ ràng không có khả năng để  sống đời sống cộng đoàn do thiếu  trưởng thành và yếu kém về tâm  lý, hoặc do những nhân tố có tính  cách bệnh lý nhiều hơn.

Sự can thiệp như vậy, không những  tỏ ra hữu ích trong giai đoạn điều  trị - trong những trường hợp ít nhiều rõ ràng là tâm bệnh - mà  còn là một biện pháp ngăn ngừa,  giúp ứng sinh chọn lựa cho đích  đáng, và cũng để giúp đỡ  đội ngũ đào tạo trong vài trường  hợp liên quan đến những vấn đề  sư phạm và huấn luyện đặc biệt (52).

Trong tất cả mọi trường hợp,  khi chọn lựa các chuyên gia, phải ưu  tiên dành cho những người có  đức tin và những người có  kinh nghiệm dồi dào về đời sống  tu trì và những năng động lực  của đời tu. Vì thế, nếu các chuyên  gia này lại chính là các tu sĩ nam nữ  sống đời thánh hiến thì tốt hơn.

Sau cùng, việc sử dụng những phương  pháp như thế sẽ chỉ có hiệu quả  thật sự nếu được áp dụng  một cách giới hạn chứ không  phải phổ biến, bởi vì các biện  pháp sư phạm tâm lý không giải quyết  được mọi vấn đề và vì  vậy ”không thể thay thế cho việc linh hướng  thực sự được” (53).

Từ ”tôi” đến ”chúng ta”

39. Sự tôn trọng con người,  như Công Đồng và nhiều văn kiện  khác sau đó khuyến cáo (54), đã  có ảnh hưởng tích cực đến  lối sống của các cộng đoàn. Tuy  nhiên chủ nghĩa cá nhân đồng thời  đang bành trướng với cường  độ mạnh hay yếu tuỳ từng miền  trên thế giới, dưới nhiều hình  thức khác nhau : nhu cầu muốn đặt  mình làm trung tâm ; nhấn mạnh quá mức  đến sự thoải mái cá nhân dù  là thể lý, tâm lý hay nghề nghiệp  ; dành ưu tiên cho công việc cá nhân  hay cho một công việc có uy tín và ”nổi  bật” ; ưu tiên tuyệt đối cho những  khát vọng và đường lối riêng  của cá nhân mà không quan tâm đến  những người khác và cũng không  đếm xỉa gì tới cộng đoàn.

Mặt khác, cần phải tìm kiếm một  sự quân bình chính đáng - một  điều không phải luôn luôn dễ dàng  đạt được - giữa công ích  và sự tôn trọng con người, giữa  những đòi hỏi và nhu cầu của  cá nhân với của cộng đoàn, giữa  đoàn sủng cá nhân và sứ vụ  tông đồ cộng đoàn. Sự quân  bình đó phải tránh sức mạnh phân  rẽ của chủ nghĩa cá nhân lẫn khía  cạnh cào bằng của chủ nghĩa cộng  đồng. Cộng đoàn tu sĩ là nơi diễn  ra cuộc vượt qua hằng ngày và kiên  trì từ cái ”tôi” đến ”chúng ta”,  từ công tác của tôi đến công  tác được uỷ thác cho cộng đoàn ; từ việc tìm kiếm ”những điều  thuộc về tôi” đến việc tìm kiếm  ”những điều thuộc về Đức  Ki-tô”.

Trong chiều hướng này, cộng đoàn  tu trì trở thành nơi hằng ngày chúng  ta học nhận lãnh một tinh thần mới,  giúp chúng ta sống trong hiệp thông huynh  đệ nhờ sự phong phú của những  hồng ân khác nhau, và đồng thời  cổ võ việc quy tụ những hồng ân  này hướng đến tình huynh đệ  và hướng đến tinh thần đồng  trách nhiệm trong dự phóng tông đồ.

40. Để thực hiện một ”hoà điệu”  cộng đoàn và tông đồ như vậy,  cần phải :

a. cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì  hồng ân ơn gọi và sứ vụ chung,  một hồng ân trổi vượt mọi sự  khác biệt cá nhân và văn hoá ;  cổ võ thái độ chiêm niệm sự  khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng đã  gửi đến cộng đoàn những anh  chị em đặc biệt mà mỗi người  đều là món quà cho người khác  ; ngợi khen Thiên Chúa về những gì mà mỗi anh chị em chia sẻ bằng sự  hiện diện và lời của Đức  Ki-tô ;

b. cổ võ sự tôn trọng lẫn  nhau nhờ đó chúng ta chấp nhận cuộc  hành trình chậm chạp của những phần  tử yếu đuối hơn, đồng thời  không bóp nghẹt sự phát triển những  cá nhân phong phú hơn ; một sự tôn trọng nuôi dưỡng óc sáng tạo  nhưng cũng đòi hỏi trách nhiệm với  người khác và với sự liên  đới ;

c. nhắm vào sứ vụ chung : mỗi hội  dòng có một sứ vụ mà tất cả  mọi người phải cộng tác vào  tuỳ theo tài năng riêng của mình. Con  đường của những người  nam và nữ tận hiến hệ tại chính  sự hiến dâng dần dần cho Thiên Chúa  tất cả những gì họ có, và tất  cả con người họ, cho sứ vụ của  gia đình tu trì ;

d. nên nhớ rằng sứ vụ tông  đồ trước hết được tín  thác cho cộng đoàn, và điều này  thường đòi hỏi thi hành những  công việc phù hợp với hội dòng.  Sự cống hiến cho tác vụ tông đồ  loại này giúp người tận hiến trưởng thành và lớn lên trong  đường lối thánh thiện đặc  thù của mỗi người ;

đ. nên biết rằng người tu sĩ,  khi vì vâng lời mà nhận lãnh các  sứ vụ cá nhân, thì phải nghĩ  là mình được cộng đoàn sai  đi. Về phần mình, cộng đoàn sẽ  phải thường xuyên giúp họ cập  nhật hoá và hoà nhập họ vào những  cuộc duyệt xét những dấn thân tông  đồ và cộng đoàn.

Trong thời gian đào tạo, dù có thiện  chí thế nào chăng nữa, một người  tận hiến có thể tỏ ra thiếu khả năng hội nhập những hồng ân cá  nhân vào tình huynh đệ và sứ  vụ chung. Trong những trường hợp  như thế, có lẽ cần phải đặt  câu hỏi : ”Các hồng ân của Thiên  Chúa trong người này có xây dựng  sự hiệp nhất và đào sâu sự  hiệp thông không ? Nếu có thì có  thể đón nhận họ. Nếu không thì  dù các hồng ân nơi chính họ có  vẻ tốt đẹp thế nào chăng nữa,  hoặc cho dù có vẻ là đáng ao ước  đối với một vài phần tử,  thì họ vẫn không thích hợp cho hội  dòng này. Thực là không khôn ngoan  khi phải chấp nhận những đường  hướng quá khác nhau mà không đặt  nền tảng vững chắc trên sự hiệp  nhất của chính hội dòng” (55).

41. Những năm gần đây đã  gia tăng một số những cộng đoàn  nhỏ, đặc biệt vì lý do làm việc  tông đồ. Những cộng đoàn này  có thể cũng khai triển những mối  liên hệ mật thiết hơn giữa các  tu sĩ, kinh nguyện được chia sẻ một  cách sâu đậm hơn, và đảm nhận  trách nhiệm một cách hỗ tương và  huynh đệ hơn (56).

Nhưng có vài động lực cần phải  được xét lại, như giống nhau về  sở thích hoặc giống nhau về não trạng. Trong hoàn cảnh này, cộng đoàn dễ  trở nên khép kín lại chính mình,  và đi tới chỗ chọn lựa những  phần tử riêng cho cộng đoàn, bằng  cách chấp nhận hoặc loại bỏ những  anh em hay chị em do bề trên gửi tới.  Điều này trái ngược với chính  bản chất và chức năng của cộng  đoàn tu trì như một dấu chỉ. Ngoài  việc làm suy yếu tính linh hoạt trong việc  tông đồ, sự thuần nhất do chọn  lựa sẽ làm suy yếu sức mạnh  Thần Khí của cộng đoàn, và làm mất đi thực tại tinh thần, thực  tại này điều khiển cộng đoàn  bằng sức mạnh của mình như một  chứng tá.

Cố gắng chấp nhận lẫn nhau và cam kết  vượt qua những khó khăn, những  đặc điểm của các cộng đoàn không thuần nhất, cho thấy tính siêu  việt trong lý do làm cho cộng đoàn hiện  hữu, đó là sức mạnh của  Thiên Chúa, một sức mạnh ”tỏ hiện  trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9-10).

Chúng ta sống với nhau trong cộng đoàn  không phải vì chúng ta đã chọn lựa  người khác, nhưng vì chúng ta được  Thiên Chúa chọn lựa.

42. Trong khi nền văn hoá mang nhãn hiệu  Tây phương có thể dẫn đến chủ  nghĩa cá nhân gây khó khăn cho đời  sống chung huynh đệ, thì những nền  văn hoá khác có thể đưa đến  chủ nghĩa cộng đồng khó lòng chấp nhận những dị biệt cá nhân. Tất  cả mọi hình thức văn hoá đều  cần được phúc âm hoá.

Sự hiện diện của các cộng đoàn  tu trì - qua tiến trình hoán cải, bước  vào đời sống huynh đệ là nơi  những cá nhân sẵn sàng phục vụ  anh chị em mình, và là nơi mà ”tập  thể” nâng cao cá nhân - là dấu chỉ  sức mạnh biến đổi của Tin Mừng  và của Nước Thiên Chúa đang đến.

Các hội dòng quốc tế trong đó có  nhiều phần tử thuộc những nền  văn hoá khác biệt sống chung với nhau, có thể góp phần vào việc trao  đổi những ân điển, qua đó  họ làm phong phú và sửa đổi  lẫn nhau trong ước nguyện chung để  càng ngày càng sống Tin Mừng tự  do cá nhân và hiệp thông huynh đệ  một cách sâu đậm hơn.

Trở thành cộng đoàn nhờ việc  huấn luyện liên tục

43. Việc canh tân cộng đoàn đã  đem lại lợi ích lớn lao nhờ  việc huấn luyện liên tục. Được  khuyến cáo và trình bày đại cương  trong văn kiện ”Những chỉ dẫn về  việc đào tạo trong các hội dòng  (57), tất cả những người có  trách nhiệm trong các hội dòng đều  coi việc huấn luyện liên tục là vấn  đề có tầm quan trọng sinh tử đối  với tương lai.

Mặc dầu có vài điều không chắc  chắn (như khó khăn trong việc tổng hợp  những khía cạnh khác biệt, khó khăn  trong việc gây ý thức nơi mọi phần  tử của cộng đoàn, mải mê với  những đòi hỏi của công tác tông  đồ, và một sự quân bình đúng  mức giữa hoạt động và việc  đào tạo), đa số các hội dòng,  ở cấp trung ương lẫn địa phương,  đều đã có các sáng kiến.

Một trong các mục tiêu của những  sáng kiến như vậy là thành lập các  cộng đoàn trưởng thành, có tinh thần phúc âm, có tình huynh đệ, và  có khả năng tiếp tục việc huấn  luyện liên tục trong đời sống thường  nhật. Cộng đoàn tu trì là nơi những  chỉ dẫn tổng quát được thi hành  một cách cụ thể, qua những cố gắng  hằng ngày kiên nhẫn và bền bỉ. Đối  với mỗi người, cộng đoàn  tu trì là nơi và là khung cảnh tự  nhiên cho quá trình phát triển, trong đó  tất cả mọi người trở nên  đồng trách nhiệm đối với sự  phát triển của người khác. Cộng  đoàn tu trì cũng là nơi mà ngày  qua ngày, các phần tử giúp đỡ  nhau như những con người đã được  thánh hiến, có một đoàn sủng chung,  nhằm đáp ứng nhu cầu của những  người hèn kém nhất và những  thách đố của xã hội mới.

Đứng trước những khó khăn,  việc đáp ứng thường khác  nhau, và gây những hậu quả hiển  nhiên cho đời sống cộng đoàn.  Từ đó phát sinh nhận thức rằng  một trong những thách đố mạnh mẽ  ngày nay là việc hoà nhập các phần  tử, được đào tạo khác  nhau và có quan điểm tông đồ khác  nhau, vào trong một cộng đoàn, để những khác biệt này không trở  thành những trường hợp xung khắc  cho bằng là những cơ hội làm phong  phú lẫn nhau. Trong một khung cảnh đa dạng  và có thể thay đổi như thế, thì  vai trò quy tụ của những người  có trách nhiệm với cộng đoàn  trở nên quan trọng hơn bao giờ hết  ; cần phải hỗ trợ họ một cách  đặc biệt bằng lãnh vực huấn  luyện liên tục, theo những đòi hỏi  trong phận sự của họ là thúc đẩy  đời sống huynh đệ và đời  sống tông đồ của cộng đoàn.

Dựa trên kinh nghiệm của những năm  gần đây, có hai khía cạnh cần để  ý đặc biệt : chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm và  đoàn sủng.

44. Chiều kích cộng đoàn trong các  lời khuyên Phúc Âm

Lời tuyên khấn của các tu sĩ diễn  tả hồng ân dâng hiến bản thân cho  Thiên Chúa và cho Giáo Hội - tuy nhiên  đó là hồng ân được sống  trong cộng đoàn của một gia đình tu  trì. Người tu sĩ không chỉ ”được  kêu gọi” đến một ơn gọi riêng  cá nhân. Ơn gọi của họ cũng là  ”cùng được kêu gọi” - con-vocation  -, họ được kêu gọi với những  người khác, với những người  mà họ chia sẻ đời sống hằng  ngày.

Ở đây có sự tập trung những  lời thưa ”xin vâng” đối với Thiên  Chúa, lời thưa đã hợp nhất  số đông tu sĩ vào sống trong một  cộng đoàn duy nhất. Cùng được  thánh hiến với nhau - nghĩa là được  hiệp nhất trong cùng một lời thưa  “xin vâng”, được hiệp nhất trong Chúa  Thánh Thần - người tu sĩ hằng ngày  khám phá ra rằng việc họ theo Chúa Ki-tô,  ”vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh”,  được sống trong tình huynh đệ,  cũng tương tự như các Tông Đồ  ngày xưa đã theo Đức Giê-su trong  tác vụ của Người. Các Tông Đồ  đã hợp nhất với Đức Ki-tô,  và vì vậy họ được mời  gọi để sống hợp nhất với  nhau. Họ được hợp nhất trong sứ  mạng loan báo một cách ngôn sứ việc  chống lại ngẫu tượng quyền lực,  chiếm đoạt và khoái lạc (58).

Như vậy, đức vâng phục ràng  buộc những ý muốn khác nhau lại và hợp nhất những ý muốn đó  trong một cộng đoàn huynh đệ duy nhất,  được trao cho một sứ vụ đặc  biệt để chu toàn trong Giáo Hội.

Vâng phục có nghĩa là ”xin vâng” đối  với kế hoạch của Thiên Chúa, nhờ  đó Người đã ký thác công  việc đặc biệt cho một nhóm người.  Lời thưa ”xin vâng” ấy gắn liền với  sứ vụ, nhưng cũng gắn liền với  cộng đoàn, một cộng đoàn phải  thực hiện việc phục vụ ở đây,  lúc này và với nhau. Lời thưa  ”xin vâng” cũng đòi hỏi một cái  nhìn đức tin sáng suốt đối với  các bề trên, những người ”thực  thi nhiệm vụ lãnh đạo và phục vụ”  (59) và là những người phải  nhận ra sự hài hoà giữa công  tác tông đồ và sứ vụ. Chính  trong việc họ hiệp thông với nhau mà  ý muốn của Thiên Chúa - ý muốn  duy nhất có thể cứu chúng ta - được  hoàn tất.

Khó nghèo, sự chia sẻ của cải,  kể cả những của cải thiêng liêng,  ngay từ đầu đã là nền tảng  cho sự hiệp thông huynh đệ. Sự  khó nghèo của cá nhân các phần  tử, gắn liền với một lối sống  giản dị và khắc khổ, không những  giải thoát người tu sĩ khỏi những  bận tâm liên hệ đến quyền sở  hữu riêng tư, mà còn làm phong phú  cộng đoàn, giúp cộng đoàn phục  vụ Thiên Chúa và người nghèo  cách hữu hiệu hơn.

Sự khó nghèo bao hàm một chiều kích  kinh tế : khả năng quyết định về  tiền bạc như là của riêng mình, hoặc  cho chính mình hoặc cho các phần tử  trong gia đình mình, một lối sống quá  khác biệt với các phần tử khác  trong cộng đoàn và với mức sống  của xã hội mình đang sống - tất cả  những điều này đều làm tổn  thương và làm suy yếu đời sống  huynh đệ.

“Khó nghèo trong tinh thần”, khiêm tốn, đơn  giản, nhìn nhận những hồng ân của  kẻ khác, đánh giá các thực tại  Tin Mừng như là ”đời sống ẩn  giấu với Đức Ki-tô trong Thiên  Chúa”, kính trọng hy sinh âm thầm, nhìn nhận những người hèn kém nhất,  tận tuỵ với những cố gắng cả  khi không được biết đến hay không  được trả công. Đó là tất  cả những khía cạnh kết hợp của  đời sống huynh đệ và phát sinh  từ lời khấn khó nghèo.

Một cộng đoàn những ”người  nghèo” sẽ dễ dàng bày tỏ sự  liên đới với người nghèo  hơn, và cho thấy trọng tâm của việc  Phúc Âm hoá, bởi vì trình bày  một cách cụ thể khả năng biến đổi  của các mối phúc.

Trong chiều kích cộng đoàn, khiết  tịnh được thánh hiến bao gồm  cả sự trong sạch tâm hồn, trái tim  và thân thể, biểu lộ sự tự  do lớn lao để yêu mến Thiên Chúa  và yêu mến tất cả những gì thuộc  về Người, bằng một tình yêu không  chia sẻ, và như vậy, có thể dốc  toàn lực để yêu mến và phục  vụ tha nhân, làm cho tình yêu của Đức  Ki-tô hiện diện. Không ích kỷ cũng  không độc quyền, không chiếm hữu  cũng không nô lệ đam mê, nhưng phổ  quát và vô vị lợi, tự do và  giải thoát - điều cần thiết cho sứ  vụ - tình yêu này được vun trồng  và lớn lên qua đời sống huynh  đệ. Như thế, những ai sống đời  độc thân thánh hiến ”nhắc mọi người  nhớ sự kết hiệp lạ lùng mà Thiên Chúa đã thực hiện, và  sẽ tỏ lộ đầy đủ ở đời  sau, và trong sự kết hiệp ấy, Hội  Thánh nhận Đức Ki-tô là Đấng  Lang Quân độc nhất của mình” (60).

Chiều kích cộng đoàn của các lời  khấn dòng cần phải được tiếp  tục nuôi dưỡng và đào sâu,  vì đó là một tiến trình mang tính  chất huấn luyện liên tục.

45. Đoàn sủng

Đây là khía cạnh thứ hai của  việc huấn luyện liên tục mà chúng  ta phải đặc biệt lưu tâm để cổ  võ sự phát triển đời sống  huynh đệ.

“Sự thánh hiến tu trì thiết lập mối  hiệp thông đặc thù giữa người  tu sĩ với Thiên Chúa và, trong Người, giữa các phần tử của cùng một  hội dòng ... Tuy nhiên, nền tảng của  sự hiệp nhất là sự hiệp thông  trong Đức Ki-tô được củng  cố bởi đoàn sủng duy nhất của  đấng sáng lập” (61). Vì thế, việc  quy chiếu về vị sáng lập dòng, và  về đoàn sủng mà vị ấy đã  sống và thông truyền, gìn giữ và  phát triển qua suốt cuộc sống của hội  dòng (62), được coi là yếu  tố thiết yếu cho sự hiệp nhất của  cộng đoàn.

Sống trong cộng đoàn là cùng nhau sống  thánh ý Thiên Chúa phù hợp với  đường hướng của đoàn sủng mà vị sáng lập đã nhận được  từ Thiên Chúa và truyền lại cho  các đồ đệ và những người  tiếp bước các ngài.

Trong những năm gần đây, khi nhấn  mạnh tầm quan trọng của đoàn sủng  nguyên thuỷ nhờ suy tư thần học phong  phú (63), cuộc canh tân đã cổ  võ sự hiệp nhất cộng đoàn, sự  hiệp nhất được coi như nơi tiếp  nhận cùng một hồng ân của Chúa  Thánh Thần, một hồng ân phải được  chia sẻ cho các anh chị em, và nhờ đó  có thể làm phong phú Giáo Hội ”cho trần  gian được sống”. Vì lý do đó,  chương trình đào tạo sẽ đặc  biệt hữu ích khi bao gồm những khoá  học đều đặn và suy tư trong cầu  nguyện về vị sáng lập, về đặc  sủng và hiến pháp của hội dòng.

Sự hiểu biết sâu xa về đoàn  sủng đưa đến cái nhìn rõ rệt  hơn về căn tính riêng của hội dòng  ; xoay quanh căn tính đó, việc xây dựng  sự hiệp nhất và hiệp thông sẽ  dễ dàng hơn. Việc nắm bắt sáng suốt  căn tính đoàn sủng của hội dòng  làm nảy sinh những điều chỉnh có  tính sáng tạo đối với những  hoàn cảnh mới, và điều này đưa  tới những triển vọng tích cực  cho tương lai của hội dòng.

Thiếu sáng suốt trong lãnh vực này  có thể dễ gây ra sự bất ổn  cho các mục tiêu và tổn thương cho  những hoàn cảnh chung quanh đời  tu, những luồng văn hoá và những  nhu cầu tông đồ khác ; thậm chí  còn có thể làm cho công cuộc thích  nghi và canh tân không thực hiện được.

46. Do đó cần phải phát triển căn  tính đoàn sủng riêng của hội dòng,  nhất là để tránh một thứ ”đại  loại” (genericism), vốn là mối đe  doạ thực sự cho sức sống của  cộng đoàn tu trì.

Trong những năm gần đây, có một  vài nhân tố đã, và trong một vài  trường hợp, vẫn còn tiếp tục  gây ra đau khổ cho cộng đoàn tu trì,  chẳng hạn :

một đường hướng ”đại loại”  (chung chung) - hay nói cách khác, một đường  hướng thiếu trung gian đặc loại của  đoàn sủng mình - khi chỉ để ý  đến một số chỉ dẫn nào đó  của Giáo Hội địa phương hay một  số gợi ý nào đó rút ra từ  các linh đạo khác nhau ;

một thứ dấn thân trong các phong trào  của Giáo Hội, đặt cá nhân người  tu sĩ vào hiện tượng mơ hồ là ”thành viên lưỡng diện” ;

trong mối liên hệ thiết yếu và đôi  khi đầy hiệu quả với giáo dân,  đặc biệt với các cộng tác viên  giáo dân, có một sự thích nghi nào  đó đối với não trạng giáo  dân. Thay vì trao ban chứng tá tu trì của  mình như một hồng ân huynh đệ để  cổ võ cho chân tính Ki-tô giáo, họ  lại chỉ bắt chước giáo dân, theo  lối nhìn và hoạt động của giáo  dân, vì vậy làm suy yếu phần đóng  góp của sự tận hiến ;

một sự thích nghi quá mức theo những  đòi hỏi của gia đình, theo những  lý tưởng của quốc gia, chủng tộc hay thị tộc, hoặc một vài nhóm xã  hội, có nguy cơ bóp méo đoàn sủng  cho hợp với địa vị hay lợi  lộc riêng.

Chủ nghĩa đại loại, một chủ nghĩa  giản lược đời tu vào một  mẫu số chung thấp nhất và không còn  sắc thái, dẫn tới việc tiêu diệt  vẻ đẹp và hiệu quả của những  đoàn sủng vừa nhiều vừa khác  biệt đã được Chúa Thánh Thần  khơi dậy.

Quyền bính để phục vụ tình huynh đệ

47. Nói chung, người ta đồng ý  rằng sự phát triển trong những năm  gần đây đã đóng góp vào  sự trưởng thành đời sống  huynh đệ trong các cộng đoàn. Trong nhiều  cộng đoàn, bầu khí đời sống  chung đã được cải thiện : có  nhiều chỗ cho mọi người tích cực  tham gia ; đã có sự chuyển biến từ  một đời sống chung dựa quá nhiều  vào việc giữ luật đến một đời  sống lưu tâm nhiều hơn đến những  nhu cầu cá nhân, nghĩa là chú trọng  hơn tới con người. Nỗ lực  xây dựng những cộng đoàn bớt  vụ hình thức, bớt độc đoán,  thêm tình huynh đệ và thêm sự  tham gia, là điều nhìn chung được  coi là một trong những kết quả dễ  nhận thấy hơn trong những năm gần đây.

48. Ở vài nơi, những phát triển  tích cực này có nguy cơ bị tổn  thương do thiếu tin tưởng vào quyền  bính.

Ước vọng có sự hiệp thông  sâu xa hơn giữa các phần tử và  một phản ứng tất nhiên chống lại  những cơ cấu được coi là quá  cứng nhắc và độc đoán đã  góp phần làm thiếu hiểu biết phạm  vi đầy đủ của vai trò quyền bính  ; thực vậy, một số người coi  quyền bính là hoàn toàn không cần  thiết cho đời sống cộng đoàn,  một số khác lại giản lược vào  vai trò thuần tuý phối hợp những  sáng kiến của các phần tử. Kết  quả, một số cộng đoàn đi đến  chỗ sống không có người phụ  trách, trong khi ở các cộng đoàn  khác, mọi quyết định đều có  tính cách tập thể. Tất cả những  điều đó đều đưa đến nguy  cơ - không phải chỉ là giả thuyết  - đổ vỡ đời sống cộng đoàn hoàn toàn, chủ ý nhắm ưu tiên cho  những đường lối cá nhân,  và đồng thời làm lu mờ chức  năng của quyền bính, một chức năng  vừa cần thiết cho sự thăng tiến  đời sống huynh đệ trong cộng đoàn,  vừa cần thiết cho hành trình thiêng  liêng của người tận hiến.

Tuy nhiên, kết quả của những thử  nghiệm này dần dần đưa tới việc  tái khám phá nhu cầu và vai trò quyền bính cá nhân, nối tiếp toàn bộ truyền  thống đời tu.

Nếu bầu khí dân chủ lan rộng đã  khuyến khích sự phát triển tinh thần  đồng trách nhiệm và sự tham gia của  mọi người trong tiến trình quyết định,  ngay cả trong đời tu, thì chúng ta đừng  quên rằng tình huynh đệ không phải  chỉ là kết quả của cố gắng nhân  loại, nhưng cũng là, và trên hết,  là một hồng ân của Thiên Chúa.  Đó là một hồng ân do tuân phục  Lời Thiên Chúa, và trong đời  tu, cũng là tuân phục quyền bính, nó  nhắc nhở chúng ta về Lời đó  và hướng về Lời trong những  hoàn cảnh đặc biệt, phù hợp  với tinh thần của hội dòng.

“Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý  trọng những ai đang vất vả vì anh  em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa  và khuyên bảo anh em. Hãy lấy tình bác  ái mà hết lòng tôn kính những  người ấy, vì công việc họ làm”  (1 Tx 5,12-13). Cộng đoàn Ki-tô hữu không  phải là một tập thể vô danh, nhưng  ngay từ lúc đầu, họ đã có  các vị lãnh đạo là những người  mà thánh Tông Đồ muốn mọi người  phải lưu tâm, kính trọng và yêu mến.

Trong các cộng đoàn tu trì, các vị  hữu trách, những người được  quan tâm và kính trọng cũng do lời  khấn vâng phục, được đặt  lên để phục vụ tình huynh đệ,  để phát triển, để hoàn thành  những mục tiêu thiêng liêng và tông  đồ.

49. Cuộc canh tân mới đây đã  giúp tái phác hoạ quyền bính với  ý định liên kết quyền bính một  lần nữa mật thiết hơn với các  nguồn gốc Tin Mừng và, do đó, liên  kết với việc phục vụ sự tiến  bộ thiêng liêng của mỗi người  và phát triển tình huynh đệ trong cộng  đoàn.

Mỗi cộng đoàn có một sứ vụ  riêng phải chu toàn. Vì thế, các vị  hữu trách phục vụ cộng đoàn  là những người phải chu toàn  một sứ vụ riêng biệt, được  hội dòng và đoàn sủng của hội  dòng tiếp nhận và xác định. Ở đâu có sự đa dạng về sứ  vụ, ở đó cũng phải có những  loại cộng đoàn khác nhau, và vì vậy,  có những cách thực thi quyền bính  khác nhau. Do đó, đời tu có những  quan điểm và đường lối thi hành  quyền bính khác nhau, được quy định  trong luật riêng.

Theo tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn  luôn là để phục vụ.

50. Cuộc canh tân trong những năm gần  đây đã nêu bật một vài khía  cạnh của quyền bính :

a. Quyền bính về tâm linh

Nếu những người tận hiến đã  dâng hiến bản thân để hoàn toàn  phụng sự Thiên Chúa, thì quyền bính  cổ võ và nâng đỡ sự tận  hiến của họ. Theo một nghĩa nào đó,  quyền bính có thể được coi là  ”tôi tớ của các tôi tớ Thiên  Chúa”. Nhiệm vụ chính của quyền bính  là xây dựng, trong sự hiệp nhất  anh chị em, một ”cộng đoàn huynh đệ  trong đó mọi người tìm kiếm và  yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi  sự” (64). Do đó, trước hết,  bề trên phải là một người tâm  linh, xác tín tính ưu việt của khía  cạnh tâm linh, vừa liên quan tới  đời sống cá nhân lẫn sự phát triển đời sống huynh đệ  ; nói cách khác, vị ấy phải biết  rằng tình yêu Thiên Chúa càng tăng  lên trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì  càng có sự hiệp nhất giữa các  tâm hồn hơn.

Như thế, nhiệm vụ chính của bề trên  là vị linh hoạt đời sống tâm  linh, cộng đoàn và tông đồ của  cộng đoàn mình.

b. Quyền bính kiến tạo sự hiệp  nhất

Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất  là một quyền bính quan tâm lo sáng tạo  bầu khí thích hợp cho sự chia sẻ  và tinh thần đồng trách nhiệm : khuyến  khích mọi người đóng góp vào  công việc chung, cổ võ các phần tử đảm nhận và tôn trọng trách nhiệm  ; qua sự lưu tâm đến con người,  cổ võ đức tuân phục tự nguyện  (65), sẵn lòng lắng nghe các phần  tử, xúc tiến sự cộng tác hài  hoà vì lợi ích của hội dòng và  của Giáo Hội (66) ; tham gia đối thoại  và tạo những cơ hội gặp gỡ  thuận tiện ; đem lại sự can đảm  và hy vọng trong những lúc khó khăn  ; dự đoán và vạch ra những chân  trời mới cho sứ vụ. Hơn nữa,  quyền bính còn phải tìm cách duy trì  sự quân bình giữa những khía  cạnh khác nhau của đời sống cộng  đoàn - giữa cầu nguyện và làm  việc, tác vụ tông đồ và việc  huấn luyện, làm việc và nghỉ ngơi.

Quyền bính của một bề trên phải  tác động thế nào để cho nhà  dòng không chỉ là một nơi trú ngụ,  tập hợp một số người sống  riêng rẽ, nhưng là một ”cộng đoàn  huynh đệ trong Đức Ki-tô” (67).

c. Quyền bính có khả năng quyết  định cuối cùng và bảo đảm việc  chấp hành

Sự phân định của cộng đoàn  là một tiến trình khá hữu ích  mặc dù không dễ dàng hay đương  nhiên, vì nó liên quan đến khả năng  của con người, sự khôn ngoan thiêng  liêng, và sự khách quan. Nơi nào  được thực hiện với đức  tin và sự nghiêm túc, thì nơi đó  sự phân định của cộng đoàn  có thể cung cấp cho các bề trên những điều kiện thuận lợi để đi  tới những quyết định cần thiết  cho lợi ích tối hảo của đời  sống huynh đệ và sứ vụ.

Khi một quyết định đã được  đưa ra thực hiện theo đúng thủ  tục do luật riêng ấn định, các bề  trên cần nhiều kiên nhẫn và can đảm  để bảo đảm rằng những gì  đã được quyết định không  chỉ là những chữ viết ghi trên giấy tờ.

51. Luật riêng của mỗi hội dòng  cũng phải xác định càng rõ càng  tốt thẩm quyền liên hệ của cộng  đoàn, của những hội đồng khác  nhau, của những vị điều phối các  ban ngành và của bề trên. Một cái  nhìn thiếu sáng suốt trong lãnh vực  này sẽ là đầu mối gây ra lộn  xộn và xung đột.

“Những dự phóng cộng đoàn” có  thể giúp gia tăng việc tham gia vào đời  sống cộng đoàn và vào sứ vụ trong những bối cảnh khác nhau, cũng  phải lưu ý xác định rõ vai trò  và thẩm quyền của các vị hữu  trách, phù hợp với hiến pháp.

52. Các cộng đoàn huynh đệ và  hiệp nhất ngày càng được mời  gọi trở thành yếu tố quan trọng  và đầy sức thuyết phục đối  với nền văn hoá phản Tin Mừng,  các cộng đoàn này là muối của  trần gian và ánh sáng cho đời.

Do đó, chẳng hạn, nếu trong xã hội  Tây phương, nơi chủ nghĩa cá nhân  lan tràn, thì cộng đoàn tu trì được mời gọi trở thành dấu chỉ ngôn  sứ cho khả năng kiến tạo tình huynh  đệ và liên đới trong Đức  Ki-tô ; trong những nền văn hoá mà  chủ nghĩa độc tài hay chủ nghĩa cộng  đồng lan tràn thì cộng đoàn được  mời gọi để trở thành dấu  chỉ tôn trọng và cổ võ quyền con  người, và cũng là lời mời  gọi thi hành quyền bính phù hợp với  ý Thiên Chúa.

Trong khi các cộng đoàn tu trì phải tham  dự vào nền văn hoá nơi họ sống,  họ cũng được mời gọi để thanh tẩy và nâng cao nền văn hoá đó,  nhờ muối và ánh sáng của Tin Mừng,  qua các cộng đoàn, đem lại một tổng  hợp cụ thể về cái không chỉ  là Phúc Âm hoá nền văn hoá (evangelization  of culture), mà còn là Phúc Âm hoá việc  hội nhập văn hoá (evangelizing inculturation)  và việc Phúc Âm hoá được  hội nhập văn hoá (inculturated evangelization).

53. Sau cùng, chúng ta không bao giờ  được quên một vấn đề thường  gây đau khổ, phức tạp và tế  nhị, đó là đức tin đóng vai  trò quyết định giúp chúng ta hiểu  được mầu nhiệm cứu độ  của đức tuân phục (68). Cũng  như vì sự bất tuân của một người  đưa đến sự tan rã của gia đình  nhân loại, và sự tuân phục của  Con Người Mới đã khởi đầu  công cuộc tái tạo (x. Rm 5,19), thì thái  độ tuân phục sẽ luôn luôn là  một sức mạnh thiết yếu cho mọi cuộc  sống gia đình.

Đời sống tu trì luôn sống nhờ  xác tín này của đức tin, và được  mời gọi để cũng sống theo xác  tín đó hôm nay, với lòng can đảm  để không chạy theo việc tìm kiếm  những tương quan huynh đệ một cách  vô ích, và để trở nên một  thực tại Phúc Âm thích hợp trong  Giáo Hội và trong xã hội.

54. Tình huynh đệ như là dấu  chỉ

Mối tương quan giữa đời sống  huynh đệ và hoạt động tông đồ,  đặc biệt trong những hội dòng dấn  thân vào công tác tông đồ, không  luôn luôn rõ rệt, và rất thường  dẫn đến sự căng thẳng cho cá  nhân lẫn cộng đoàn. Đối với  một số người, việc ”xây dựng  cộng đoàn” bị coi là trở ngại  cho sứ vụ, gần như hoang phí thời  giờ trong những vấn đề thứ  yếu. Mọi người phải nhớ rằng  sự hiệp thông huynh đệ như thế  đã là một tác vụ tông đồ  rồi. Nói cách khác, nó đóng góp  trực tiếp cho công cuộc Phúc Âm  hoá. Dấu chỉ tuyệt hảo mà Chúa  đã để lại cho chúng ta là dấu  chỉ của tình huynh đệ sống động  : ”Do điều này mà mọi người sẽ  biết anh em là môn đệ Thầy, là anh  em yêu thương nhau” (x. Ga 13,35).

Cùng với việc sai các môn đệ  đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật  (Mt 28,19-20), Chúa đã sai các ông sống  với nhau ”để thế gian tin” rằng Đức  Giê-su là Đấng được Chúa  Cha sai đến và để chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Người (Ga 17,21). Dấu  chỉ của tình huynh đệ là điều  rất hệ trọng, vì là dấu chỉ cho thấy  nguồn gốc siêu nhiên của sứ điệp  Ki-tô giáo, và có năng lực mở  lòng đón nhận đức tin. Vì thế,  ”hiệu quả của đời tu tuỳ thuộc  vào phẩm chất của đời sống huynh  đệ cộng đoàn” (69).

55. Một cộng đoàn tu trì, tuỳ mức  độ cổ võ đời sống huynh đệ  trong các phần tử của mình, là sự  thể hiện một cách liên tục và rõ  ràng ”dấu chỉ” này, dấu chỉ mà Giáo  Hội cần nhất trong nhiệm vụ tái Phúc Âm hoá của mình.

Cũng vì lý do đó, Giáo Hội tin tưởng  vào đời sống huynh đệ của các  cộng đoàn tu trì : tình huynh đệ càng thắm thiết thì sự tin tưởng vào  sứ điệp mà Giáo Hội công bố  càng gia tăng, và trung tâm của mầu  nhiệm Giáo Hội, bí tích hiệp nhất  nhân loại với Thiên Chúa và hiệp  nhất các phần tử với nhau, càng  hiện rõ hơn (70). Đời sống  huynh đệ không phải là ”bổ túc”  cho sứ vụ của cộng đoàn tu trì,  nhưng là một yếu tố nòng cốt. Đời  sống huynh đệ cũng quan trọng như đời  sống tông đồ.

Vì thế, không thể viện lẽ những  nhu cầu của việc phục vụ tông đồ  để chấp nhận hay biện minh cho sự khiếm khuyết đời sống cộng đoàn.  Hoạt động của tu sĩ phải là hoạt  động của người sống trong cộng  đoàn, và chu toàn hoạt động đó  với tinh thần của cộng đoàn bằng  lời nói, hành động và gương  sáng.

Trong những trường hợp đặc  biệt, chúng ta sẽ xem xét sau, có thể  cần có những điều chỉnh, nhưng  không được cho phép một tu sĩ  sống ngoài sự hiệp thông và tinh  thần của cộng đoàn mình.

56. Khi ý thức trách nhiệm của  mình đối với tình huynh đệ rộng  lớn trong Giáo Hội, các cộng đoàn  tu sĩ cũng trở nên dấu chỉ về  khả năng sống tình huynh đệ Ki-tô  giáo và về cái giá phải trả để  xây dựng bất cứ hình thức  đời sống huynh đệ nào.

Hơn nữa, trong bối cảnh những xã  hội khác nhau trên hành tinh chúng ta - bị  xâu xé bởi những thế lực phân rẽ do đam mê và xung đột quyền  lợi, khao khát hiệp nhất nhưng không  biết đường nào chắc chắn để  theo - sự hiện diện của các cộng  đoàn có những con người khác  nhau về tuổi tác, ngôn ngữ và văn  hoá, gặp gỡ nhau như anh chị em, mà  vẫn hiệp nhất mặc dù có những  xung khắc không thể tránh được,  cũng như những khó khăn cố hữu  trong đời sống chung, tự nó là  một dấu chỉ làm chứng cho một thực  tại cao hơn và cho thấy những khát  vọng cao hơn :

“Nhờ đời sống loan báo niềm vui  và các giá trị siêu nhiên cũng  như tự nhiên của tình huynh đệ  Ki-tô giáo, các cộng đoàn tu trì  công bố cho xã hội chúng ta thấy  sức mạnh biến đổi của Tin Mừng”  (71).

“Trên hết mọi đức tính, anh em phải  có lòng bác ái, đó là mối dây tuyệt hảo liên kết anh em” (Cl 3,12), đó  là tình bác ái Đức Giê-su đã  dạy, đã sống và đã truyền đạt  cho chúng ta nhờ Thánh Thần. Tình yêu  hiệp nhất này cũng là tình yêu khiến  chúng ta trải rộng tới người  khác kinh nghiệm hiệp thông với Thiên  Chúa và với nhau. Nói cách khác,  tình yêu này tạo nên những vị  tông đồ bằng cách thúc đẩy các  cộng đoàn trên nẻo đường sứ vụ, dù đó là việc chiêm  niệm, loan truyền Lời Chúa hay làm việc  từ thiện. Thiên Chúa muốn làm cho  trần gian tràn ngập tình yêu của Người  ; bởi thế, các cộng đoàn huynh đệ  trở nên những người thừa  sai của tình yêu này, và trở thành  những dấu chỉ ngôn sứ cho sức  mạnh hiệp nhất của tình yêu ấy.

57. Phẩm chất đời sống huynh đệ  có ảnh hưởng quan trọng đối với  sự bền chí của cá nhân tu sĩ.  Phẩm chất nghèo nàn của đời  sống huynh đệ vẫn thường được  coi là lý do để bỏ đời tu thế  nào, thì sống sung mãn tình huynh đệ  thường và vẫn là một sự  nâng đỡ quý giá cho sự kiên  trì của nhiều người như thế.

Trong một cộng đoàn huynh đệ chân  chính, mỗi phần tử đều phải có  tinh thần đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của những người  khác. Mỗi người đóng góp cho  bầu khí thanh bình của đời sống  chia sẻ, của sự hiểu biết và sự  trợ giúp hỗ tương, mỗi người  lưu tâm đến những lúc chán nản,  đau khổ, cô đơn hay những lúc thiếu sự động viên nơi những  người khác ; mỗi người sẵn  sàng nâng đỡ những ai bị buồn  sầu vì những khó khăn và thử  thách.

Như vậy, các cộng đoàn tu trì, khi  nâng đỡ sự bền chí của các  phần tử, cũng có giá trị là  dấu chỉ của lòng thành tín vĩnh tồn  nơi Thiên Chúa, và như vậy, trở  nên cột trụ chống đỡ đức  tin và sự trung tín của các Ki-tô  hữu đang bị nhận chìm giữa bao  biến cố cuộc đời, nơi các nẻo  đường thành tín xem ra càng ngày  càng bị lãng quên.

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây