ĐỜI SỐNG HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN (4)

Thứ sáu - 02/06/2017 02:55
Như Thánh Thần xức dầu cho Giáo Hội trong phòng Tiệc Ly để sai Giáo Hội đi rao giảng Tin Mừng khắp thế giới, thì mỗi cộng đoàn tu trì, như là một cộng đoàn thần khí đích thực của Đấng Phục Sinh, cũng là cộng đoàn tông đồ theo đúng bản chất của mình.
CHƯƠNG III : CỘNG ĐOÀN TU TRÌ, ĐỊA ĐIỂM VÀ CHỦ THỂ THI HÀNH  SỨ VỤ
 
58. Như Thánh Thần xức dầu cho  Giáo Hội trong phòng Tiệc Ly để sai Giáo  Hội đi rao giảng Tin Mừng khắp thế  giới, thì mỗi cộng đoàn tu trì,  như là một cộng đoàn thần khí  đích thực của Đấng Phục Sinh,  cũng là cộng đoàn tông đồ theo  đúng bản chất của mình.
         Thực vậy, ”hiệp thông phát sinh hiệp  thông : tự bản chất sự hiệp  thông được liên kết với sứ  vụ nhân danh sự hiệp thông ... Hiệp  thông và sứ vụ liên kết chặt  chẽ với nhau, cả hai thấm nhập và  bao hàm lẫn nhau, đến nỗi sự hiệp  thông tượng trưng cho cả nguồn mạch  và kết quả của sứ vụ : hiệp  thông làm phát sinh sứ vụ và sứ  vụ được hoàn thành nhờ hiệp thông” (72).
           Không có một cộng đoàn tu trì nào,  ngay cả những cộng đoàn chuyên chiêm  niệm, được co cụm lại chính mình.
           Đúng hơn, cộng đoàn là loan báo,  phục vụ (diakonia), và là chứng  tá ngôn sứ. Đấng Phục Sinh, đang sống trong cộng đoàn, đang thông ban Thần  Khí của Người cho cộng đoàn, đã  làm cho cộng đoàn trở thành chứng  nhân của sự phục sinh.

Cộng đoàn tu trì và sứ vụ

         Trước khi suy tư về một vài hoàn  cảnh đặc biệt mà, để trung thành  với sứ vụ chuyên biệt của mình,  một cộng đoàn tu trì ngày nay phải  đương đầu trong những hoàn cảnh  khác nhau trên khắp thế giới, thật  là hữu ích cho chúng ta khi tìm hiểu  ở đây mối tương quan đặc biệt  giữa những loại cộng đoàn tu  trì khác nhau và sứ vụ họ được  kêu gọi để thi hành.

59. a/. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã  tuyên bố : ”Các tu sĩ phải đem hết  tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người  của họ, thực sự biểu dương  Đức Ki-tô ngày một hoàn hảo  hơn cho các tín hữu cũng như cho lương dân, biểu dương Chúa Ki-tô đang cầu  nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước  Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa  lành những kẻ đau yếu tật nguyền,  hay hoán cải các tội nhân trở lại  đời sống phong phú, hoặc đang chúc  phúc cho các trẻ em, ban ơn lành cho mọi  người và luôn luôn vâng phục  thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người  đến” (73).
Do tham dự vào những khía cạnh khác  nhau của sứ vụ Đức Ki-tô, Thánh  Thần làm phát sinh những dòng tu khác  nhau, xác định đặc tính của họ  bằng những sứ vụ khác nhau, và  do đó, bằng những loại cộng đoàn khác nhau.

      b/. Kiểu mẫu cộng đoàn chiệm niệm  (biểu dương Đức Ki-tô trên núi)  thì tập trung vào sự hiệp thông hai chiều với Thiên Chúa và với  các phần tử trong cộng đoàn. Kiểu  mẫu này có ảnh hưởng tông đồ  hữu hiệu nhất, mặc dù vẫn còn  khoảng cách giấu ẩn lớn trong mầu  nhiệm. Cộng đoàn tu trì ”tông đồ”  (biểu dương Đức Ki-tô ở giữa  dân chúng) được thánh hiến để  phục vụ tha nhân một cách sống động,  một công việc phục vụ chuyên biệt  phát xuất từ đoàn sủng riêng  biệt.
Trong số ”những cộng đoàn tông đồ”,  một số cộng đoàn nhấn mạnh nhiều  vào đời sống chung đến nỗi sứ vụ tông đồ của họ tuỳ thuộc  vào khả năng hình thành cộng đoàn.  Những cộng đoàn khác thì quyết  định hướng về sứ vụ, và  đối với họ, kiểu mẫu cộng đoàn  tuỳ thuộc vào loại hình sứ vụ.  Các hội dòng rõ ràng được  tổ chức theo những hình thức đặc  biệt của công việc tông đồ thì  nhấn mạnh đến sự ưu tiên của  toàn thể gia đình tu trì, xét như là  một thân thể mang tính tông đồ, và  một cộng đoàn rộng lớn được  Thánh Thần trao ban sứ vụ phải thi hành  trong Giáo Hội. Sự hiệp thông làm  sống động và quy tụ đại gia đình  lại được sống một cách cụ  thể trong những cộng đoàn nhỏ ở  địa phương, là những cộng đoàn  được giao phó thi hành sứ vụ  tuỳ theo những nhu cầu khác nhau.
Như vậy, đã có những loại cộng  đoàn tu trì khác nhau lưu truyền qua nhiều  thế kỷ, chẳng hạn như các đan viện,  tu viện, và các cộng đoàn hoạt động  hay ”phục vụ” (diaconal).
           Do đó ”đời sống chung trong cộng đoàn”  không có cùng một ý nghĩa đối  với tất cả mọi tu sĩ. Các đan  sĩ, các tu sĩ và các phần tử  sống đời hoạt động duy trì những  khác biệt hợp pháp trong cách hiểu  và sống cộng đoàn tu trì.
Sự khác biệt này được trình  bày trong hiến pháp của các hội dòng,  hiến pháp phác hoạ đặc tính của  hội dòng, và hậu nhiên phác hoạ  đặc tính của cộng đoàn.

     c/. Nói chung, đặc biệt đối với  những cộng đoàn tu trì chuyên hoạt  động tông đồ, người ta thấy,  theo kinh nghiệm hằng ngày, có đôi chút  khó khăn khi phải hoà hợp những  đòi hỏi của đời sống cộng  đoàn với công việc tông đồ.  Nếu có nguy cơ đối nghịch giữa  hai khía cạnh này thì cũng sẽ có  khó khăn khi phải hoà hợp chúng  lại với nhau. Đây cũng là một  chiều hướng ích lợi cho đời  tu là đời sống nhằm vun trồng đồng  thời cả lối sống của người  môn đệ>, phải sống với Đức  Giê-su và với đám đông đi  theo Người, và lối sống của người  tông đồ, phải tham gia vào sứ  vụ của Chúa.

     d/. Trong những năm gần đây, nhu  cầu tông đồ rất đa dạng thường  đưa đến việc cùng tồn tại trong  một hội dòng những cộng đoàn  khác biệt nhau đáng kể, những cộng  đoàn lớn và có cơ cấu chặt  chẽ hơn hiện hữu bên cạnh cộng  đoàn nhỏ hơn, linh động hơn, nhưng  vẫn không đánh mất đi tính chất  cộng đoàn đích thực của đời  tu.
         Tất cả những điều này xem ra ảnh  hưởng lớn đối với đời  sống và bản chất của hội dòng,  mà ngày nay không còn chặt chẽ như  ngày xưa, nhưng đa dạng hơn và có  nhiều cách khác nhau để sống cộng  đoàn tu trì.

      đ/. Trong một vài hội dòng, khuynh hướng  nhấn mạnh đến sứ vụ hơn là  cộng đoàn, và khuynh hướng cổ võ sự khác biệt hơn là sự  hiệp nhất, đã tác động sâu xa  đến đời sống huynh đệ trong cộng  đoàn, đến nỗi đôi khi trở  thành một điều nhiệm ý hơn là  một thành phần toàn vẹn của đời  tu.
Hệ quả của điều này chắc chắn  không có tính cách tích cực ; những  hệ quả ấy khiến chúng ta đặt ra những câu hỏi nghiêm chỉnh là không  biết có thích hợp để tiếp tục  đi theo chiều hướng này không, và  gợi ra yêu cầu phải xây dựng  một đường lối tái khám phá  sự liên kết mật thiết giữa cộng  đoàn và sứ vụ, để vượt  qua một cách sáng tạo những khuynh hướng  đơn phương bao giờ cũng làm cạn  kiệt thực tại phong phú của đời  tu.

 Trong Giáo Hội địa phương

60. Sự hiện diện có tính truyền  giáo của một cộng đoàn tu trì được  phát triển trong khung cảnh của một Giáo  Hội địa phương. Các phần tử  của cộng đoàn đem lại cho Giáo Hội  đó sự phong phú của đời thánh  hiến, của tình huynh đệ và đoàn  sủng của mình.
           Nguyên bằng sự hiện diện của mình,  một cộng đoàn tu trì không chỉ mang  trong mình sự phong phú của đời  sống Ki-tô hữu mà thôi, nhưng vì  là một đơn vị, cộng đoàn làm  thành lời loan báo sứ điệp Ki-tô  giáo cách đặc biệt hiệu nghiệm.  Có thể nói đó là một lời  rao giảng sống động và liên tục.  Điều kiện khách quan này rõ rệt buộc chính các tu sĩ phải chịu trách  nhiệm, trong khi kêu gọi họ trung thành với  sứ vụ ưu tiên này, trong khi sửa sai và loại trừ những gì có thể  làm suy yếu sức lôi cuốn nơi gương  sáng của họ, làm cho sự hiện diện  của họ nơi Giáo Hội địa phương  dễ nhận ra và quý giá hơn bất cứ  một thẩm định nào khác.
            Vì đức ái là đoàn sủng lớn  nhất (x. 1 Cr 13,13), nên một cộng đoàn  tu trì làm phong phú cho Giáo Hội mà  mình là thành phần sống động, trước  hết bằng lòng mến của mình. Cộng  đoàn tu trì yêu mến Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương nơi  cộng đoàn tháp nhập, vì chính trong  Giáo Hội và như Giáo Hội mà cộng  đoàn gắn bó với sự hiệp  thông của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh,  nguồn mạch mọi sự lành. Trong cách  này, cộng đoàn đặc biệt biểu  lộ chính bản chất của Giáo Hội.
           Một cộng đoàn tu trì yêu mến Giáo  Hội địa phương, sẽ làm phong phú  cho Giáo Hội đó bằng đoàn sủng của mình và mở ra cho Giáo Hội đó  một chiều kích phổ quát hơn. Văn  kiện Những liên hệ hỗ tương  (Mutuae Relationes) đã đề cập đến  mối tương quan tinh tế giữa những  nhu cầu mục vụ của Giáo Hội địa  phương với tính chất riêng biệt  trong đoàn sủng của cộng đoàn tu  trì. Thêm vào những chiều kích thần  học và mục vụ, văn kiện này đã  góp phần quan trọng cho sự cộng tác  thân thiện và mật thiết hơn. Thời  gian đã đưa đến một cách nhìn khác về văn kiện, nhằm đi đến  bước đột phá mới cho tinh thần  hiệp thông đích thực giữa cộng  đoàn tu trì và Giáo Hội địa phương.
           Những khó khăn đang gia tăng và việc  thiếu nhân sự trong hoạt động sứ  vụ cám dỗ cả cộng đoàn tu trì và Giáo Hội địa phương rơi vào  tình trạng cô lập nào đó, dĩ  nhiên điều này không cải thiện sự  hiểu biết và hợp tác hỗ tương  chút nào.
          Cộng đoàn tu trì có nguy cơ là một  đàng hiện diện ở địa phương  mà không gắn bó với đời  sống hoặc chương trình mục vụ của  Giáo Hội đó, đàng khác chỉ giản  lược vào các phận sự mục  vụ mà thôi. Ngoài ra, nếu đời  sống tu trì càng ngày càng có khuynh  hướng nhấn mạnh đến căn tính  đoàn sủng riêng, thì Giáo Hội địa phương thường ép buộc và đòi  hỏi năng lực của các tu sĩ trong  những hoạt động mục vụ của  giáo phận hay giáo xứ. Những chỉ  dẫn mà <%3>văn kiện ”Những liên  hệ hỗ tương” đưa ra, giúp cộng  đoàn tu trì khỏi tách rời hay  đứng độc lập trong tương quan với  Giáo Hội địa phương, và khỏi  đồng hoá trong thực tiễn với  Giáo Hội địa phương.
           Một cộng đoàn tu trì không thể hoạt  động độc lập với Giáo Hội  địa phương, hay thay thế Giáo Hội  địa phương hoặc là ít nhiều chống  lại những chỉ thị và chương trình  mục vụ của Giáo Hội địa phương.  Tương tự như vậy, Giáo Hội địa  phương cũng không thể theo những sở  thích và những nhu cầu riêng mà áp  đặt quyết định của mình đối  với cộng đoàn tu trì hay bất cứ  phần tử nào của cộng đoàn đó.
           Điều quan trọng cần nhắc lại là  thiếu hiểu biết đúng đắn về  đoàn sủng của cộng đoàn tu trì  sẽ không thể phục vụ cho thiện ích  của Giáo Hội địa phương cũng  như cho ích lợi của chính cộng đoàn  tu trì. Chỉ khi nào một cộng đoàn  tu trì xác định rõ rệt căn tính  đoàn sủng của mình, khi ấy cộng đoàn  mới có thể tự hội nhập vào ”chương trình mục vụ tổng quát” mà  không đánh mất đặc tính riêng  của mình. Thực vậy, chỉ với đường  hướng đó, cộng đoàn mới  có thể làm cho những chương trình  mục vụ thêm phong phú với ân điển  của mình.
          Chúng ta không nên quên rằng, mọi đoàn  sủng phát sinh trong Giáo Hội và cho thế  giới, và sự liên kết với nguồn mạch và mục đích của đoàn  sủng đó, cần phải được đổi  mới thường xuyên ; mỗi đoàn  sủng sống động tuỳ theo mức độ  người ta trung thành với đoàn  sủng ấy.
Giáo Hội và thế giới là khung cảnh  để giải thích, đòi hỏi, và thúc  đẩy đoàn sủng tiếp tục phát  triển tương xứng và sống động.  Đoàn sủng và Giáo Hội địa phương  không được xung khắc với nhau,  nhưng đúng hơn, phải nâng đỡ  và hoàn thiện lẫn nhau, đặc biệt  vì ngày nay đang phát sinh nhiều vấn đề  liên quan đến việc sống đoàn sủng  và hội nhập đoàn sủng vào những  hoàn cảnh thay đổi.
           Nguồn gốc của nhiều hiểu lầm có  lẽ là sự hiểu biết lẫn nhau một  cách phiến diện hoặc là về phía  Giáo Hội địa phương, hoặc là  về phía đời sống tu trì, và về  phía trách nhiệm của giám mục đối  với đời tu.
           Chúng tôi tha thiết xin tất cả các chủng  viện giáo phận đưa vào chương  trình học thần học cả những môn đặc biệt về thần học đời  sống thánh hiến, nghiên cứu về khía  cạnh tín lý, luật pháp, và mục vụ  của đời sống đó nữa ; về  phía tu sĩ, họ cũng phải được  đào tạo thích đáng về thần học  Giáo Hội phương (74).
         Tuy nhiên, trên hết, một cộng đoàn  tu trì thực sự sống huynh đệ cảm  thấy có trách nhiệm làm lan toả bầu khí hiệp thông, bầu khí làm cho toàn  thể cộng đoàn Ki-tô hữu trở  thành ”gia đình con cái của Thiên Chúa”.

61. Giáo xứ
         Trong các giáo xứ, đôi khi có thể  có khó khăn trong việc hoà hợp đời  sống giáo xứ và đời sống  cộng đoàn. Trong một vài vùng, những  khó khăn sống cộng đoàn đang khi  hoạt động mục vụ tại giáo xứ  đã gây ra những căng thẳng đáng  kể đối với các linh mục - tu sĩ.  Thỉnh thoảng, những ràng buộc nặng  nề của công việc mục vụ trong giáo  xứ đã làm phương hại đến  đoàn sủng của hội dòng và đời  sống cộng đoàn đến nỗi các vị quản xứ, hàng giáo sĩ triều và  ngay cả chính các tu sĩ cũng không nhận  rõ được bản chất riêng biệt  của đời tu.
          Những nhu cầu mục vụ khẩn thiết  không bao giờ được làm cho chúng  ta quên rằng sự phục vụ tốt nhất mà một cộng đoàn tu trì có thể  đem lại cho Giáo Hội là trung thành với  đoàn sủng của mình. Điều này  cũng được phản ánh trong việc  lãnh nhận trách nhiệm điều hành  các giáo xứ. Phải dành ưu tiên  cho những giáo xứ giúp cộng đoàn  sống như là một cộng đoàn, và  ở đó các tu sĩ có thể biểu  lộ đoàn sủng của mình.
           Các cộng đoàn nữ tu cũng gặp  phải những khó khăn tương tự,  khi thường xuyên được yêu  cầu dấn thân trực tiếp hơn cho công  việc mục vụ của giáo xứ.
           Ở đây cũng cần nhắc lại rằng,  cộng đoàn càng hiện diện theo đoàn  sủng của mình thì sự hiện diện  của cộng đoàn càng đem lại nhiều  hoa trái (75). Tất cả những điều  này có thể là lợi điểm lớn  lao cho cả cộng đoàn tu trì lẫn công  việc mục vụ là công việc mà các  nữ tu thường được đón  nhận nồng hậu và được đánh  giá cao.

62. Các phong trào Giáo Hội
         Các phong trào Giáo Hội, hiểu theo nghĩa  rộng nhất của từ này, với tinh  thần sống động và sinh lực tông đồ, đã thu hút sự chú tâm  của một số tu sĩ dấn thân trong các  phong trào đó, đôi khi rút ra được  kết quả là sự canh tân tinh thần,  sự cống hiến cho việc tông đồ,  và tái thức tỉnh ơn gọi của họ.  Tuy nhiên, một đôi khi sự dấn thân  như thế cũng gây ra những phân rẽ  trong cộng đoàn tu trì.
          Do đó cần để ý tới những  nhận xét sau đây :

a/. Một vài phong trào chỉ là những  phong trào canh tân, những phong trào khác  lại có những dự phóng tông đồ  có thể không tương hợp với  dự phóng của cộng đoàn.
        Cũng thế, về phía những người  tận hiến, có những mức độ  dấn thân khác nhau : một vài người  tham dự với tư cách là khán giả  ; những người khác thỉnh thoảng  tham dự ; còn những người khác  nữa là thành viên thường trực  trong khi vẫn giữ sự hoà hợp  hoàn toàn với cộng đoàn và linh  đạo của mình. Tuy nhiên, việc các thành viên chủ chốt đang hoạt động  trong đoàn thể và việc những người  sống xa cách hội dòng của mình về phương diện tâm lý, lại trở thành  vấn đề. Họ sống trong tình trạng  bị phân tâm : cư ngụ trong cộng đoàn,  nhưng sống theo những chương trình mục  vụ và theo những nguyên tắc của  phong trào.
         Do đó cần phải cẩn thận phân biệt  phong trào này với phong trào khác, và  phân biệt những hình thức dấn  thân khác nhau về phía cá nhân người tu sĩ.

b/. Các phong trào này có thể là  một thách đố hữu ích đối  với cộng đoàn tu sĩ, với năng  động lực thiêng liêng của cộng  đoàn, phẩm chất đời sống cầu  nguyện của cộng đoàn, sự tương  hợp trong các sáng kiến tông đồ  của cộng đoàn, sự trung tín với  Giáo Hội, cường độ của đời  sống huynh đệ. Một cộng đoàn tu trì  nên cởi mở để gặp gỡ  các phong trào này, bằng cách tỏ ra  thái độ hiểu biết, đối thoại  và trao đổi ân điển với nhau.
        Một truyền thống thiêng liêng lớn  lao, truyền thống khổ hạnh và thần bí  của đời sống tu trì và của các  hội dòng cũng có thể có ích cho  những phong trào trẻ trung này.

c/. Khó khăn chính đối với các  phong trào này là căn tính của cá  nhân những người tận hiến : nếu  căn tính này vững chắc thì mối  tương quan có thể đem lại thành công  cho cả đôi bên.
          Đối với những tu sĩ có vẻ  như sống trong và cho phong trào nhiều hơn  là trong và cho cộng đoàn tu trì của  mình, thì nên nhớ lại khẳng định  trong ”Những chỉ dẫn về việc huấn  luyện trong các hội dòng” : ”Một hội dòng có những mối liên kết nội  tại do bản chất, mục đích, tinh thần,  đặc tính và truyền thống của mình.  Toàn bộ di sản này là trục duy trì  sự hiệp nhất của chính hội dòng  lẫn sự hiệp nhất đời sống  của mỗi phần tử. Đây là hồng  ân Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và không  chấp nhận bất kỳ sự can thiệp hay  một sự pha trộn nào. Đối thoại  và chia sẻ trong Giáo Hội giả thiết  rằng mỗi hội dòng phải ý thức  rõ bản chất của mình.
          “Các ứng viên bước vào đời  sống tu trì ... tự đặt mình ... dưới  thẩm quyền của bề trên hội dòng.  Họ không thể đồng thời phụ thuộc  vào một người nào khác ngoài  hội dòng.
          “Những đòi hỏi này vẫn còn sau  khi tu sĩ đã tuyên khấn, để sự  trung thành khỏi bị phân rẽ vừa  ở phương diện đời sống thiêng  liêng của cá nhân lẫn ở phương  diện sứ vụ của họ” (76).
            Tham gia một phong trào có thể có lợi  ích tích cực cho tu sĩ nếu việc tham  gia đó giúp tăng cường chân tính  riêng biệt của họ.

Một vài trường hợp đặc biệt

63. Hoà mình với người nghèo
           Vì đồng hành với nhiều anh chị  em khác trong đức tin, các cộng đoàn  tu trì ở trong số những người  đầu tiên quan tâm đến sự khó  nghèo vật chất và tinh thần của thời  đại mình, theo những cách thức  thường xuyên được canh tân.
           Trong những năm gần đây, sự khó  nghèo là một vấn đề đã thu hút  hết tâm trí của các tu sĩ và tác  động đến tâm hồn họ. Đời  sống tu trì đã thật sự đối  diện với vấn đề làm thế nào  để công việc truyền bá Phúc Âm cho người nghèo (evangelizare pauperibus)  được hữu hiệu. Nhưng người  tu sĩ cũng muốn được Phúc Âm  hoá nhờ tiếp xúc với thế giới  người nghèo (evangelizari a pauperibus).
          Trong cuộc động viên to lớn này,  các tu sĩ đã chọn làm chương trình  cho mình : ”Mọi người vì người nghèo”, ”đa số sống với người  nghèo”, ”nên giống người nghèo” ;  một vài thành tựu trong lĩnh vực  ”nên giống người nghèo” đáng  được quan tâm đặc biệt.
           Đứng trước cái nghèo của  đa số quần chúng, đặc biệt trong  những khu vực bị bỏ rơi hoặc  bị loại ra bên lề nơi những thành  phố lớn, và trong những vùng quê  bị lãng quên, ”sự hoà mình của  các cộng đoàn tu trì” nổi bật như  một trong những cách diễn tả sự  chọn lựa ưu tiên và lựa chọn  Tin Mừng liên đới với người  nghèo. Các cộng đoàn này muốn đồng  hành với người nghèo trong tiến  trình giải phóng toàn diện, nhưng đó  cũng là thành quả của ước vọng  muốn khám phá Đức Ki-tô nghèo  khổ trong những anh chị em sống bên lề,  để phục vụ Người và trở  nên đồng hình dạng với Người.

a/. ”Hoà mình”, xét như lý tưởng  của đời sống tu trì, đã phát  triển trong bối cảnh đức tin và tình  liên đới thúc đẩy các cộng  đoàn tu trì đến với những  người nghèo nhất.
         Đó là một thực tại không thể  không khơi dậy lòng ngưỡng mộ  đối với sự tận tuỵ bản thân  và những hy sinh to lớn ; khơi dậy  lòng yêu thương người nghèo ;  khơi dậy lòng yêu thương khiến người  ta chia sẻ cái nghèo thực sự khắc  nghiệt của họ ; khơi dậy nỗ lực  làm cho Tin Mừng hiện diện trong những  khu vực dân cư không còn hy vọng,  mang Lời Thiên Chúa đến gần họ  hơn, và làm cho họ cảm nhận được  họ là thành phần sống động của  Giáo Hội (77). Những cộng đoàn  này thường sống trong những vùng  ghi đậm dấu ấn bạo lực gây ra  bất ổn, và đôi khi bị ngược  đãi đến mức đời sống  thật sự bị nguy hiểm. Lòng can đảm  lớn lao của họ là bằng chứng  rõ ràng cho niềm hy vọng mọi người  có thể sống với nhau như anh chị  em, bất chấp mọi tình huống đau khổ  và bất công.
Thường được gởi tới  những lãnh vực sứ vụ biên  cương, đôi khi là chứng tá cho  tính sáng tạo tông đồ của vị  sáng lập, các cộng đoàn như thế  phải cố gắng tin tưởng vào thiện  chí và lời cầu nguyện huynh đệ  của các phần tử trong hội dòng của  họ và vào sự quan tâm đặc biệt  của các bề trên (78).

b/. Không nên bỏ mặc các cộng đoàn  tu trì này một mình. Họ cần được  giúp đỡ để sống đời sống  cộng đoàn. Điều này đòi hỏi  phải có những khoảng khắc dành cho  việc cầu nguyện và có những trao  đổi huynh đệ, nhằm bảo đảm rằng  tính độc đáo trong đoàn sủng của  hội dòng không có vẻ tương đối  ít quan trọng hơn công việc phục vụ  người nghèo đồng đều, và  để chứng tá Phúc Âm của họ  không bị che khuất bởi những  giải thích và sự lợi dụng của  người trong nhóm (79).
           Các bề trên nên thận trọng trong việc  tuyển chọn các phần tử thích hợp  và chuẩn bị các cộng đoàn như thế làm sao để bảo đảm sự  liên kết với các cộng đoàn khác  trong hội dòng, nhờ đó giữ được  tính liên tục.  c. Chúng ta cũng nên tán thưởng  những cố gắng của các cộng đoàn  tu trì khác đang dấn thân hữu hiệu  cho người nghèo, dù là theo những  đường lối truyền thống, hay những  đường lối mới phù hợp  hơn với những hình thức khó  nghèo mới, hoặc bằng cách khơi dậy  ý thức (về vấn đề người  nghèo) nơi mọi cấp bậc xã hội -  như vậy là làm phát sinh sự dấn  thân hoạt động xã hội và chính  trị, những dự án bác ái và  việc phục vụ tự nguyện giữa  các ơn gọi giáo dân.
           Tất cả các điều đó chứng  tỏ rằng đức tin đang sống động  trong Giáo Hội, tình yêu của Đức  Ki-tô đang hoạt động và hiện diện  giữa những người nghèo : ”Mỗi  lần các ngươi làm như thế cho một  trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta  đây, là các ngươi đã làm  cho chính Ta vậy” (x. Mt 25,40).
          Ở đâu sự hoà mình giữa  người nghèo đã trở nên một  kinh nghiệm về Thiên Chúa cho cả người  nghèo lẫn cộng đoàn tu trì, thì nơi  đó thực sự có kinh nghiệm để  khẳng định rằng người nghèo được  rao giảng Phúc Âm và người nghèo  rao giảng Phúc Âm.
 
64. Các cộng đoàn nhỏ

a/. Các nhân tố xã hội khác cũng  ảnh hưởng đến các cộng đoàn.  Trong một vài vùng phát triển về kinh  tế, Chính quyền tỏ ra tích cực hơn  trong một số lãnh vực như giáo dục,  sức khoẻ và các dịch vụ xã  hội, thường để lại rất ít  hoặc không để lại chỗ trống nào  cho các tác nhân khác, như các cộng  đoàn tu trì chẳng hạn. Mặt khác,  vì sự giảm sút về số lượng  các nam nữ tu sĩ, và ở nơi này  hay nơi khác, một hiểu biết giới  hạn về sự hiện diện của người  Công Giáo trong các hoạt động xã  hội, được coi là có tính cách  bổ túc hơn là một biểu hiện đích  thực của tinh thần bác ái Ki-tô  giáo, đã gây khó khăn cho việc thực  hiện các dự phóng phức tạp.
           Vì vậy, trong một vài miền, người  ta đã dần dần bỏ các hoạt động  truyền thống - trong nhiều năm vẫn do các  cộng đoàn vững mạnh và đồng  nhất đảm nhận - và nơi các cộng  đoàn nhỏ lại gia tăng những loại  dịch vụ mới, thường không phù  hợp với đoàn sủng của hội  dòng.

b/. Những cộng đoàn nhỏ hơn cũng  đã thường trở nên như là  kết quả của việc một số hội dòng  chọn lựa kỹ lưỡng nhằm cổ  võ sự hiệp nhất và cộng tác  huynh đệ qua những mối liên hệ gần  gũi hơn giữa các cá nhân, qua việc  chia sẻ trách nhiệm hỗ tương và dựa  trên căn bản rộng rãi hơn.
Những cộng đoàn như thế, đã  được nói đến trong tông huấn  Chứng tá Phúc Âm (80) chắc  chắn là có thể hiện hữu, mặc  dù tỏ ra đòi hỏi các phần tử  nhiều hơn.

c/. Những cộng đoàn nhỏ, thường  tiếp xúc gần gũi với cuộc sống  và các vấn đề hằng ngày của  con người, nhưng cũng bị ảnh hưởng  nhiều bởi não trạng thế tục, có  trách nhiệm quan trọng là phải trở  nên những nơi chốn hữu hình của  một tình huynh đệ hạnh phúc, của  sự cần cù quảng đại và của  niềm hy vọng siêu việt.
          Vì vậy các cộng đoàn này cần  phải có một chương trình sống vững  vàng, linh động và chặt chẽ, và  phải được giới chức trách  có thẩm quyền chấp thuận để việc  tông đồ mang tính cộng đoàn. Chương  trình này phải phù hợp với các  cá nhân cũng như những nhu cầu của  sứ vụ, bằng cách phát triển hài  hoà việc cầu nguyện và hoạt động,  những lúc gần gũi thân mật trong  cộng đoàn và lúc hoạt động tông  đồ. Chương trình đó cũng nên bao gồm cả những cuộc gặp gỡ  định kỳ với các cộng đoàn  khác trong cùng một hội dòng. Mục đích  chính là nhằm vượt qua nguy cơ bị  cô lập và tách rời khỏi cộng  đoàn lớn hơn của hội dòng.

d/. Cho dù các cộng đoàn nhỏ có  thể đem lại những cơ hội thuận  lợi, thì bình thường cũng không  nên khuyến khích thiết lập một hội  dòng chỉ gồm những cộng đoàn  nhỏ. Rất cần có những cộng đoàn  lớn hơn. Những cộng đoàn này  có thể cung cấp những trợ giúp  đầy ý nghĩa cho toàn hội dòng lẫn  các cộng đoàn nhỏ hơn, nuôi dưỡng  đời sống cầu nguyện và các việc  cử hành nghi lễ sốt sắng và phong  phú hơn ; là nơi thích hợp để  nghiên cứu và suy tư ; là nơi tĩnh  tâm và nghỉ ngơi cho các thành viên  đang hoạt động trên những biên  cương đầy khó khăn của sứ  vụ rao giảng Phúc Âm.
            Bầu khí thân ái và chấp nhận lẫn  nhau sẽ đem lại nhiều kết quả do việc  hỗ tương qua lại giữa hai hình thức  cộng đoàn trên.
          Người ta nhận biết những cộng  đoàn đó trước tiên qua tình  yêu thương huynh đệ liên kết các  phần tử, qua cuộc sống giản dị của  họ, qua sứ vụ mà họ đảm trách  với danh nghĩa cộng đoàn, qua việc  trung thành kiên trì với đoàn sủng của họ, qua việc không ngừng truyền  thông ”hương vị ngọt ngào” của Đức  Ki-tô (2 Cr 2,15), để trong những hoàn  cảnh bất thường nhất, họ vẫn  có thể bày tỏ ”con đường bình  an”, thậm chí ngay cả cho những thành  phần bị hoang mang và phân tán của xã  hội tân tiến.
 
65. Các tu sĩ nam nữ sống một  mình
           Một trong những thực tại đôi  khi chúng ta gặp phải là tình trạng các  tu sĩ nam hoặc nữ sống một mình. Đời  sống chung trong một nhà của hội dòng  là lối sống chính yếu của đời  tu. ”Các tu sĩ phải sống trong nhà dòng  của mình, tuân thủ nếp sống chung. Họ  không nên sống một mình nếu không  có lý do hệ trọng, và không nên  sống như vậy nếu có một cộng đoàn  của hội dòng ở gần đấy” (81).
          Tuy nhiên, có những ngoại lệ cần  được các bề trên lượng  định và cho phép (82) vì lý do  tông đồ nhân danh hội dòng, (chẳng  hạn như những công việc do Giáo Hội  yêu cầu ; những sứ vụ khác thường  ; những vùng xa xôi trong miền truyền  giáo ; sự giảm sút dần dần các  thành viên của cộng đoàn, đến  nỗi chỉ có một tu sĩ duy nhất phụ  trách một trong những công việc của  hội dòng), hoặc vì lý do sức khoẻ  và học hành.
          Trong khi trách nhiệm của các bề trên  là phải củng cố liên lạc thường  xuyên với các thành viên sống ngoài cộng đoàn, thì bổn phận của các  tu sĩ này là phải luôn ý thức  rằng mình thuộc về hội dòng và hiệp  thông với các phần tử của hội  dòng, và tìm mọi phương thế thích  hợp để củng cố mối dây huynh  đệ. Phải hoạch định những thời  kỳ sống huynh đệ thắm thiết, cũng  như những cuộc gặp gỡ thường  xuyên với các tu sĩ bạn nhằm đào  tạo, chia sẻ huynh đệ, duyệt lại đời  sống, và cầu nguyện, để hít thở  bầu khí gia đình. Dù ở đâu  đi nữa, các phần tử của hội  dòng cũng là những người mang  đoàn sủng của gia đình tu trì của  họ.
          Tu sĩ sống một mình không bao giờ  là điều lý tưởng. Nguyên tắc  là tu sĩ phải sống trong những cộng  đoàn huynh đệ : mỗi cá nhân được  thánh hiến trong đời sống chung này,  và chính trong lối sống này mà các  tu sĩ nam nữ đảm nhận tác vụ  tông đồ của họ một cách bình  thường ; họ phải trở về đời  sống này, cả tâm hồn lẫn con người,  trong khi vì cần thiết, họ phải sống  cách biệt một thời gian dài hoặc  ngắn.

a/. Những đòi hỏi của công việc  tông đồ đặc biệt, chẳng hạn  như công việc của giáo phận, đã  khiến nhiều hội dòng khác nhau phải  gởi một trong những phần tử của  mình cộng tác trong đội ngũ liên  hội dòng. Có những kinh nghiệm tích  cực trong đó các tu sĩ cộng tác  trong việc phục vụ một công việc đặc  biệt ở nơi không có cộng đoàn  của hội dòng mình, thay vì sống một  mình, họ lại sống chung một nhà, cầu  nguyện chung với nhau, họp nhau để suy  niệm Lời Chúa, chia sẻ lương thực  và những công việc trong nhà, v.v...  Bao lâu điều này không thay thế việc  sống hiệp thông với hội dòng riêng  của họ, thì ”đời sống cộng đoàn”  loại này có thể thuận lợi cho công  việc và cho chính các tu sĩ.
          Tu sĩ nên cẩn thận khi muốn đảm  nhận một công việc mà bình thường  đòi hỏi họ phải sống ngoài cộng đoàn, và các bề trên cũng nên  khôn ngoan trong việc chỉ định các phần  tử vào những công việc này.

b/. Những đòi hỏi phải chăm  sóc cha mẹ già yếu bệnh tật thường  kéo theo sự vắng mặt lâu dài khỏi  cộng đoàn, cũng cần phân định  cẩn thận, và có thể đáp ứng  những nhu cầu như thế bằng những  cách sắp xếp khác để con cái không  phải vắng mặt lâu quá.

c/. Cần lưu ý rằng, các tu sĩ sống  một mình, không có sự bổ nhiệm  hay phép của bề trên, là đang trốn tránh bổn phận sống chung. Tham dự một  vài cuộc hội họp hay nghi lễ chưa đủ  để là một tu sĩ trọn vẹn. Phải  nỗ lực dẹp bỏ dần dần những  hoàn cảnh không chính đáng và không  thể chấp nhận được như thế  đối với các tu sĩ nam nữ.

d/. Trong mỗi trường hợp, nên  nhắc lại rằng, ngay cả khi sống ngoài  cộng đoàn, tu sĩ vẫn thuộc quyền  của giám mục trong lãnh vực hoạt  động tông đồ (83), giám mục  phải được thông báo về sự  hiện diện của tu sĩ trong giáo phận của  mình.

đ/. Nếu chẳng may có những hội  dòng mà đa số các thành viên không  còn sống trong cộng đoàn nữa, thì các hội dòng đó không còn được  coi là dòng tu thực sự. Các bề  trên và các tu sĩ được mời  đặc biệt suy tư về hậu quả đáng  buồn này, và từ đó suy nghĩ về  tầm quan trọng trong việc mạnh mẽ phục  hồi việc thực hành đời sống  chung huynh đệ.

66. Các miền truyền giáo
            Đời sống chung huynh đệ có giá  trị đặc biệt trong những miền truyền  giáo (ad gentes), vì tỏ ra cho thế giới,  nhất là thế giới ngoài Ki-tô giáo,  thấy ”tính chất mới mẻ” của Ki-tô  giáo, đó là, đức ái có khả  năng thắng vượt mọi phân rẽ  do chủng tộc, màu da và thị tộc. Nơi  những quốc gia không thể rao giảng Tin  Mừng được, thì các cộng đoàn  tu sĩ gần như là dấu hiệu duy nhất,  là chứng tá thầm lặng và hữu  hiệu của Đức Ki-tô và của Giáo  Hội.
            Nhưng nhiều khi rõ ràng chính trong các  khu vực truyền giáo mà các tu sĩ  phải đương đầu với những  khó khăn thực tế đáng lưu tâm  trong việc xây dựng những cộng đoàn  vững chắc và khả thị : những  khoảng cách không gian đòi hỏi phải  có những cộng đoàn đầy năng  động và rải rác trong một phạm vi  rộng ; việc thuộc về những chủng  tộc, thị tộc, nền văn hoá khác  nhau ; nhu cầu cho việc đào tạo trong những  trung tâm liên dòng. Những điều này  và những nhân tố khác có thể  gây trở ngại cho một cộng đoàn  lý tưởng.
           Điều quan trọng là các phần tử  của hội dòng ý thức được  tính cách khác thường của hoàn  cảnh, cổ võ thông tin cho nhau thường  xuyên, thúc đẩy những cuộc gặp  gỡ chung đều đặn, và xây dựng  những cộng đoàn huynh đệ có đặc  tính truyền giáo mạnh mẽ càng sớm  càng tốt, nhờ đó các cộng đoàn  có thể là dấu chỉ truyền giáo tuyệt  hảo : ”Xin cho tất cả nên một ..., để  thế gian tin” (Ga 17,21).

67. Tổ chức lại công việc
            Những thay đổi trong các điều kiện  văn hoá và trong Giáo Hội, những  nhân tố nội tại trong việc phát triển  các hội dòng và những thay đổi  về nguồn lực của các hội dòng  có thể đòi phải tổ chức lại  công việc và sự hiện diện của  các cộng đoàn tu trì.
          Công việc này, một công việc không  dễ, có những hệ luỵ thực sự  liên quan tới cộng đoàn. Nói chung,  đó là những công việc mà nhiều  anh chị em đã cống hiến những năng  lực tông đồ cao nhất của mình,  và bị ràng buộc bởi những liên  hệ tâm lý và thiêng liêng đặc  biệt.
           Tương lai của những công việc này,  ý nghĩa tông đồ và việc tổ chức  lại những công việc đó đòi  hỏi phải nghiên cứu, so sánh và  phân định. Tất cả những chuyện  này có thể trở thành một mái  trường để học tìm kiếm và  tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, nhưng  đồng thời cũng có thể là một  dịp gây ra những xung đột đau đớn không dễ dàng vượt qua.
          Những tiêu chuẩn không thể bỏ qua  và chúng soi sáng cộng đoàn khi cần  quyết định, đôi khi phải can đảm  và đau đớn, là : tận tâm bảo  vệ ý nghĩa của đoàn sủng riêng  trong một bối cảnh riêng biệt, quan tâm  duy trì một đời sống huynh đệ  thực sự, và chú trọng tới  những nhu cầu của Giáo Hội địa  phương. Vì thế, một sự đối  thoại tin tưởng và liên tục với  Giáo Hội địa phương quả là thiết  yếu, vì là mối liên kết hữu  hiệu với những người chịu  trách nhiệm về sự hiệp thông giữa  các tu sĩ.
          Thêm vào việc chú ý đến những  nhu cầu của Giáo Hội địa phương,  các cộng đoàn tu trì cũng phải quan tâm đến tất cả những gì mà  thế giới xao lãng - đó là những  hình thức mới của cảnh khó nghèo  và đau khổ dưới nhiều dạng mà  chúng ta gặp thấy ở nhiều nơi khác  nhau trên thế giới.
Việc tổ chức lại sẽ có tính  sáng tạo và là nguồn mạch của những  dấu chỉ ngôn sứ nếu quan tâm loan  báo những cách thức hiện diện  mới - dù chỉ trong một số nhỏ - để  đáp ứng những nhu cầu mới,  đặc biệt là những nhu cầu của  đa số các khu vực bị bỏ rơi và  quên lãng.

68. Các tu sĩ cao niên
         Hiện nay, một trong những tình huống mà  đời sống cộng đoàn thường  gặp phải nhiều, đó là sự gia  tăng tuổi tác nơi các phần tử.  Tuổi tác mang một ý nghĩa đặc biệt  vừa vì số ơn gọi mới giảm  sút, vừa vì những tiến bộ của  y học.  Đối với cộng đoàn, một mặt,  sự kiện này có nghĩa là quan tâm  đến việc chấp nhận và coi trọng sự hiện diện cũng như việc phục  vụ mà các anh em cao niên đã có  thể cống hiến nơi cộng đoàn, mặt  khác, điều đó cũng có nghĩa là  để ý đến việc cung cấp - một  cách thân tình và phù hợp với  đời sống thánh hiến - những trợ  giúp về mặt tinh thần cũng như vật  chất mà người có tuổi cần đến.
           Sự hiện diện của những anh chị  em lớn tuổi trong các cộng đoàn có  thể rất tích cực. Một tu sĩ đã  cao niên mà vẫn không để những  phiền luỵ cũng như những giới  hạn về tuổi tác chế ngự được  mình, nhưng cứ sống vui vẻ, yêu thương  và hy vọng, thì tu sĩ đó lại trở  nên nguồn nâng đỡ quý giá đối  với những người trẻ. Các  tu sĩ cao niên mang lại một chứng tá,  sự khôn ngoan và lời cầu nguyện,  đó là nguồn động viên thường  xuyên cho những người trẻ trong hành  trình tâm linh và tông đồ của họ.  Hơn nữa, người tu sĩ quan tâm đến  những anh em cao niên sẽ đem lại một  sự khả tín có tính cách Tin Mừng  cho hội dòng của mình như là một  ”gia đình đích thực được  quy tụ nhân danh Thiên Chúa” (84).
           Những người tận hiến cũng nên  chuẩn bị một thời gian dài trước  để trở nên già cả và để  kéo dài những năm ”hoạt động”  bằng việc học biết cách thức mới  để xây dựng cộng đoàn và  cộng tác vào sứ vụ chung, tích cực  đáp ứng những thách đố của  thời đại mình, nhờ những mối  quan tâm sống động về tinh thần và  văn hoá, bằng lời cầu nguyện, bằng  việc tiếp tục tham gia hoạt động bao  lâu còn có thể phục vụ, cho dù  có bị giới hạn. Các bề trên  cũng nên sắp xếp các khoá học và  những cuộc gặp gỡ để giúp  đỡ việc chuẩn bị cá nhân, kéo  dài và tăng cường sự hiện  diện của các tu sĩ trong vị trí công  tác bình thường của họ càng nhiều  càng tốt.
          Đến khi các phần tử cao niên không còn độc lập được nữa,  hoặc khi họ cần đến sự chăm  sóc đặc biệt, kể cả sự chăm  sóc của người giáo dân, thì hội  dòng nên quan tâm nhiều đến việc  nâng đỡ họ, nhờ đó họ  vẫn cảm thấy mình là một phần trong  đời sống của hội dòng, chia sẻ  sứ vụ của hội dòng, liên đới  trong năng động lực tông đồ của  hội dòng, an ủi họ trong những lúc  cô độc, khích lệ họ khi họ gặp  đau khổ. Họ không bao giờ từ  bỏ sứ vụ, nhưng họ ở tại  chính trung tâm của sứ vụ khi tham dự  vào sứ vụ đó bằng một cách  thức mới mẻ và hiệu quả.
Dù âm thầm, thành quả của họ không  kém gì so với các cộng đoàn năng  động hơn. Các cộng đoàn này nhận  được sức mạnh và hoa trái  nhờ lời cầu nguyện, nhờ những  đau khổ và những việc xem ra có vẻ  ít ảnh hưởng của các anh em cao niên.  Sứ vụ cần cả hai hình thức đó,  và những kết quả sẽ trở nên  rõ ràng khi Chúa đến trong vinh quang cùng  với các thiên thần của Người.
69. Những vấn đề nảy sinh từ  việc gia tăng số tu sĩ cao niên trở  nên gay cấn hơn đối với một số  đan viện thiếu ơn gọi. Vì bình thường,  mỗi đan viện là một cộng đoàn  độc lập, nên tự mình khó có  thể vượt qua được những  vấn đề này. Vì thế, nên nhắc  lại tầm quan trọng của những cơ cấu  hiệp thông, như các liên hiệp chẳng hạn, để khắc phục những hoàn  cảnh rất cần đến nhân sự.
Sự trung tín với đời sống  chiêm niệm đòi hỏi các phần tử  của một đan viện phải hiệp nhất  với một đan viện khác trong cùng  một dòng khi một cộng đoàn đan viện,  vì con số các phần tử, tuổi tác  hoặc thiếu ơn gọi, thấy trước  sự tan rã của cộng đoàn. Cũng  vậy, trong hoàn cảnh đáng buồn của  những cộng đoàn không còn có  thể sống theo ơn gọi riêng của mình,  vì các phần tử bị kiệt sức  dần do công việc hoặc phải săn sóc  những anh em già cả, yếu đau, khi đó  cần phải xin dòng trợ lực, hoặc  phải lựa chọn liên kết hoặc sát  nhập với đan viện khác (85).

70. Mối tương quan mới đối  với giáo dân
          Giáo Hội học của Công Đồng đã  chiếu toả ánh sáng vào tính cách  bổ túc của những ơn gọi khác  nhau trong Giáo Hội mà chúng ta được  kêu mời cùng nhau trở nên chứng  tá cho Chúa Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh  và nơi chốn. Sự gặp gỡ và  cộng tác giữa các tu sĩ nam nữ  và tín hữu giáo dân được  coi là một thí dụ về sự hiệp  thông trong Giáo Hội, đồng thời củng  cố các năng lực tông đồ để  Phúc Âm hoá thế giới.
          Sự tiếp xúc thích đáng giữa  các giá trị là đặc trưng của  ơn gọi giáo dân, chẳng hạn như một  nhận thức cụ thể hơn về đời  sống con người, văn hoá, chính trị,  kinh tế, v.v..., và những giá trị là  đặc trưng của đời sống tu trì,  như việc theo Chúa Ki-tô cách triệt để,  chiều kích chiêm niệm và cánh chung của  đời sống theo Ki-tô giáo, v.v... có  thể biến thành sự trao đổi các  ân điển một cách hữu ích giữa  người tín hữu giáo dân và  các cộng đoàn tu trì.
         Sự cộng tác và trao đổi các  ân điển trở nên chặt chẽ hơn,  khi do ơn gọi và theo cách thức riêng,  các nhóm giáo dân chia sẻ đoàn sủng  và sứ vụ của hội dòng tại trung  tâm của cùng một gia đình thiêng  liêng. Theo cách này, có thể thiết lập  những mối tương quan hữu ích, dựa  trên những liên hệ đồng trách  nhiệm chín chắn, và được hỗ  trợ bởi những chương trình  được hoạch định thường  xuyên để huấn luyện về linh đạo  của hội dòng.
         Tuy nhiên, để đạt được mục  tiêu đó, cần phải có : những  cộng đoàn tu trì với căn tính  đoàn sủng rõ rệt, khi đã được  tiếp tục và được sống, có  khả năng chuyển trao và sẵn sàng chia  sẻ cho người khác ; những cộng đoàn có một nền linh đạo mạnh  mẽ và nhiệt tình truyền giáo để  thông truyền cùng một tinh thần và cùng  một lực đẩy để Phúc Âm hoá  ; những cộng đoàn tu trì biết cách  cổ vũ và khích lệ người giáo  dân chia sẻ đoàn sủng của hội dòng,  theo đặc tính trần thế của họ và  theo lối sống khác biệt của họ, mời  gọi họ khám phá những phương thức mới để thực thi cùng  một đoàn sủng và cùng một sứ  vụ. Như vậy, một cộng đoàn tu trì trở thành trung tâm chiếu toả, một  sức mạnh thiêng liêng, một trung tâm  của nhiệt tình, của tình huynh đệ  phát sinh tình huynh đệ, và của sự  hiệp thông và cộng tác trong Giáo Hội,  nơi đó những đóng góp khác  nhau của mỗi người giúp xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô, tức là  Giáo Hội.
         Dĩ nhiên, sự cộng tác chặt chẽ  phải được thực hiện với  lòng kính trọng ơn gọi của nhau, và  những lối sống khác biệt phù hợp  với người tu trì và phù hợp  với người giáo dân.
          Một cộng đoàn tu trì có những  nhu cầu riêng của mình về hứng khởi,  thời biểu, kỷ luật và sự cách  biệt (86), nên không thể chấp nhận  được những hình thức cộng  tác bao hàm việc đồng cư và sống  chung giữa tu sĩ và giáo dân, kể  cả khi những sắp xếp như thế có  định rõ những điều kiện cần  phải được tôn trọng.
           Nếu không, một cộng đoàn tu trì sẽ  đánh mất đặc điểm riêng của  mình mà cộng đoàn có trách nhiệm phải duy trì bằng cách tuân giữ đời  sống chung.
 
KẾT LUẬN

71. Cộng đoàn tu trì, xét như là  một cách biểu lộ Giáo Hội, là hoa  quả của Chúa Thánh Thần, và là  sự tham dự vào sự hiệp thông  của Ba Ngôi. Vì thế, mọi tu sĩ đều  phải cảm thấy mình đồng trách nhiệm  đối với đời sống huynh đệ  cộng đoàn, ngõ hầu bộc lộ việc  họ thuộc về Đức Ki-tô, Đấng  đã chọn và kêu gọi các anh em và  chị em sống với nhau nhân danh Người.
           “Hiệu quả của đời sống tu trì  tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời  sống huynh đệ cộng đoàn. Hơn nữa,  đặc điểm của phong trào canh tân  trong Giáo Hội và trong đời tu là  tìm kiếm sự hiệp thông và cộng  đoàn” (87).
            Đối với một vài tu sĩ và một  vài cộng đoàn, công việc khởi  sự tái xây dựng nếp sống huynh  đệ cộng đoàn có vẻ là một  chuyện chán nản, thậm chí không tưởng.  Đứng trước một số vết thương  trong quá khứ và những khó khăn  trong hiện tại, công việc có vẻ vượt  quá các khả năng của con người  yếu đuối.
Vấn đề là suy tư trong đức tin  về ý nghĩa thần học của đời  sống huynh đệ cộng đoàn, của việc  xác tín rằng chứng tá sự thánh  hiến tuôn trào từ đời sống  đó.
Đức Thánh Cha nói : ”Câu trả lời  cho lời mời gọi cùng với Chúa  kiên trì xây dựng cộng đoàn  mỗi ngày diễn ra trên đường thánh  giá ; câu trả lời này đòi  hỏi phải bỏ mình thường xuyên”  (88).
            Hiệp với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu  Đức Giê-su, các cộng đoàn chúng  ta kêu cầu Chúa Thánh Thần, Đấng  có sức mạnh kiến tạo các cộng  đoàn huynh đệ có khả năng toả  chiếu niềm vui của Tin Mừng và có  thể lôi cuốn những môn sinh mới,  theo gương cộng đoàn tiên khởi  : ”Họ chuyên cần nghe các tông đồ  giảng dạy, siêng năng tham dự lễ  bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42), ”Càng  ngày càng có thêm nhiều người  tin theo Chúa : đàn ông đàn bà đông  vô kể” (Cv 5,14).
            Nguyện xin Đức Ma-ri-a quy tụ các cộng  đoàn tu trì và trợ giúp họ hằng  ngày nhờ lời cầu khẩn Chúa Thánh  Thần, Đấng là dây liên kết, là  men và là nguồn mạch của mọi sự  hiệp thông huynh đệ.

           Ngày 15 tháng 1 năm 1994, Đức Thánh  Cha đã châu phê văn kiện này của  Bộ các hội dòng tận hiến và các  tu đoàn tông đồ, và đã ban phép  công bố.

Rô-ma, ngày 2 tháng 2 năm 1994,
lễ dâng Chúa trong đền thờ
Hồng Y Eduardo Martinez Somalo, Tổng Trưởng
Francisco Javier Errázuriz Ossa, Tổng thư ký
 
-------------------------------------------------- 
Phần Chú Thích
 
(1) DT 2.
(2) X. DT 2-4.
(3) X. DT 44d.
(4) X. DT 15a ; GH 44c.
(5) X. LH 11.
(6) GH 12.
(7) X. LH 14.
(8) X. CT 30-39 ; LH 2, 3, 10, 14 ; YT 18-22 ; HL 25-28 ; cũng  xc. GL 602.
(9) X. GL 594, §1.
(10) X. DT 15.
(11) X. GL 602, 619.
(12) GL 607,§2.
(13) X. Giáo luật 602.
(14) X. GL 608 ; 665, §1.
(15) GL 731, §1.
(16) X. GL 607, §2 ; cũng xc. GL 602.
(17) X. GL 587.
(18) Santo Domingo, HĐGM Mỹ châu La-tinh lần  thứ IV, 1992, 178, 180.
(19) X. Phẩm giá phụ nữ ; MV  9, 60.
(20) X. DT 15a ; GL 602.
(21) X. MV 3.
(22) X. GH 7.
(23) X. GH 4 ; LH 2.
(24) X. DT 1 ; YT 18-22.
(25) X. DT 1.
(26) TT 24.
(27) HL 21-22.
(28) CN 15.
(29) X. GL 663, §3 và 608.
(30) X. LM 6 ; DT 6.
(31) X. GL 608.
(32) LM 6.
(33) X. GL 663, §4.
(34) CN 15.
(35) X. HL 32-34 ; 87.
(36) X. GH 46b.
(37) X. GL 602 ; DT 15a.
(38) X. CT 39.
(39) X. DT 14.
(40) X. GL 619.
(41) X. CT 39 ; YT 19.
(42) Thánh Hi-la-ri-ô, Khảo luận về  Thánh vịnh 132, PL Suppl. 1,244.
(43) Xem trên đây, các số 14, 16, 28  và 31.
(44) X. CN 14 ; ĐT 17 ; GL 666.
(45) GH 46.
(46) Như trên.
(47) X. YT 45.
(48) Như trên.
(49) YT 47.
(50) X. GH 44.
(51) HL 43.  ỴHEADER-A = 536
(52) HL 43, 51, 63.
(53) HL 52.
(54) DT 14c ; GL 618 ; YT 49.
(55) YT 22 ; cũng x. LH 12.
(56) X. CT 40.
(57) X. HL 66-69.
(58) X. TT 25.
(59) LH 13.
(60) DT 12 ; xc. GL 607.
(61) YT 18 ; xc. LH 11-12.
(62) X. LH 11.
(63) X. LH 11-12 ; YT 11 ; 41.
(64) GL 619.
(65) X. GL 618.
(66) Như trên.
(67) GL 619.
(68) X. DT 14 ; YT 49.
(69) Đức Gio-an Phao-lô II, gửi phiên  họp khoáng đại Bộ các hội dòng  tận hiến và các tu đoàn tông đồ,  20-11-1992.
(70) X. GH 1.
(71) Đức Gio-an Phao-lô II, như trên,  số 4.
(72) Ki-tô hữu giáo dân 32 ;  xc. LM 2.
(73) GH 46a.
(74) X. LH 30b, 47.
(75) LH 49-50.
(76) HL 93.
(77) X. Santo Domingo 85.
(78) X. TT 6 ; LB 69 ; Santo Domingo 92.
(79) X. HL 28.
(80) X. CT 40.
(81) YT III, s. 12.
(82) X. GL 665,§1.
(83) X. GL 678, §1.
(84) DT 15a.
(85) X. DT 21 và 22.
(86) X. GL 667, 607 §3.
(87) Đức Gio-an Phao-lô II, gửi phiên  họp khoáng đại Bộ các hội dòng  tận hiến và các tu đoàn tông đồ,  20-11-1992.
(88) Như trên, số 2.
 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây