Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
Thư số 175 / Năm XV
* * *
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 04/ 2025
-------------
Thông điệp DILEXIT NOS - CHƯƠNG 1
(tiếp theo & hết)
Phan Rang, ngày 20.03.2025
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
Cuối tháng 4 này, Anh Hai và Anh Giuse Hiệp được mời tham dự Đại Hội thường kỳ (3 năm / lần) của Hiệp Hội Gia Đình Thiêng Liêng Charles de Foucauld, mà Tu Hội chúng ta được kết nạp là thành viên chính thức thứ 19 từ năm 1997. Chủ đề : Hãy thay đổi cách nhìn của chúng ta ! Trong sự mong manh và hy vọng. Năm nay Ban Trù Bị mời 2 thuyết trình viên là bà Margarita Saldana Mostajo và Đức Cha Claude Rault. Mỗi nhóm được yêu cầu chuẩn bị trước để trình bày vài trường hợp cụ thể của nhóm mình. ĐH năm nay được tổ chức từ ngày 28/04/2025 đến 03/05/2025, tại Tarrès, Tây Ban Nha. Tạ ơn Chúa và xin anh chị em cầu nguyện cho ĐH đạt được những kết quả thiêng liêng tốt đẹp góp phần thăng tiến các Nhóm (20) trong GĐTLCDF của chúng ta.
Chúng ta tiếp tục đọc & học hỏi chương 1 của Thông Điệp Dilexxit nos, từ số 17-31.
TRÁI TIM KẾT HỢP CÁC PHÂN MẢNH
17. Đồng thời, trái tim làm cho mọi mối gắn kết chân thực trở thành có thể, vì một mối tương quan không được hình thành bởi trái tim thì sẽ không thể vượt qua tình trạng phân mảnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Hai đơn tử có thể tiếp cận nhau, nhưng chúng sẽ không bao giờ thực sự kết nối. Một xã hội bị thống trị bởi bệnh ái kỷ và qui ngã sẽ ngày càng trở nên “vô tâm”. Điều này đến lượt nó sẽ dẫn tới tình trạng “mất khát vọng”, vì khi những người khác biến mất khỏi chân trời, chúng ta thấy mình bị mắc kẹt trong những bức tường do chính mình tạo ra, không còn khả năng có những mối tương quan lành mạnh.[14] Kết quả là chúng ta cũng trở nên mất khả năng cởi mở với Thiên Chúa. Như Heidegger diễn tả, để cởi mở với thực tại thần linh, chúng ta cần xây dựng một “nhà khách”.[15]
18. Do đó, chúng ta thấy rằng trong trái tim của mỗi người có một mối nối kết thần nhiệm giữa sự tự thức và sự cởi mở với người khác, giữa việc gặp gỡ tính độc đáo của riêng mình và sự sẵn lòng hiến thân cho người khác. Chúng ta chỉ trở thành chính mình trong mức độ ta đạt được khả năng nhìn nhận người khác, trong khi chỉ những ai có thể nhìn nhận và chấp nhận bản thân mình thì mới có thể gặp gỡ người khác.
19. Trái tim cũng có khả năng thống nhất và hòa hợp lịch sử cá nhân của chúng ta, lịch sử này dường như bị phân mảnh một cách vô vọng, nhưng lại là nơi mà mọi thứ khả dĩ có ý nghĩa. Phúc Âm kể cho ta điều này khi nói về Đức Mẹ, người đã nhìn mọi sự bằng trái tim. Mẹ có thể đối thoại với những điều Mẹ đã trải nghiệm bằng cách suy ngẫm chúng trong lòng, trân quí ký ức về chúng và nhìn chúng trong một viễn cảnh rộng lớn hơn. Diễn tả hay nhất về cách trái tim suy nghĩ được tìm thấy trong hai bản văn của Tin Mừng Luca nói với chúng ta về cách Đức Maria “ghi nhớ (synetérei) tất cả những điều ấy và suy ngẫm (symbállousa) trong lòng” (x. Lc 2,19 và 51). Động từ Hy lạp symbállein, “suy ngẫm”, gợi hình ảnh của việc ghép hai thứ lại với nhau (“các biểu tượng”) trong tâm trí của mình và suy tư về chúng, trong một cuộc đối thoại với chính mình. Trong Luca 2,51, động từ được dùng là dietérei, có nghĩa là “giữ gìn”. Điều Đức Maria đã “giữ gìn” không chỉ là ký ức của Mẹ về những gì Mẹ đã thấy và nghe, mà còn là những khía cạnh mà Mẹ vẫn chưa hiểu; tuy nhiên, những khía cạnh này vẫn hiện diện và sống động trong ký ức của Mẹ, chờ đợi để được “ghép lại” trong trái tim của Mẹ.
20. Trong thời đại trí tuệ nhân tạo này, chúng ta không thể quên rằng thi ca và tình yêu thật cần thiết để cứu nhân loại chúng ta. Sẽ không có thuật toán nào nắm bắt được, chẳng hạn, nỗi hoài vọng mà tất cả chúng ta đều cảm thấy, bất kể tuổi tác và bất kể ta đang sống ở đâu, khi chúng ta nhớ lại lần đầu tiên mình dùng một cái nĩa để dán mép vỏ những chiếc bánh nhân mà ta giúp mẹ hay bà của mình làm ở nhà. Đó là khoảnh khắc học nghề nấu nướng, vào khoảng giữa tuổi chơi đùa của trẻ con và tuổi trưởng thành, khi chúng ta lần đầu tiên cảm thấy có trách nhiệm làm việc và giúp đỡ nhau. Bên cạnh chiếc nĩa, tôi cũng có thể kể đến hàng ngàn điều nhỏ nhặt khác vốn thuộc về phần quí giá trong cuộc sống của mỗi người: một nụ cười ta nhận được khi kể một câu chuyện vui, một bức vẽ ta phác họa dưới ánh sáng bên khung cửa sổ, trận bóng đá đầu tiên chúng ta chơi với quả bóng làm bằng nùi giẻ, những con sâu chúng ta thu thập được trong hộp giày, một bông hoa ta ép vào trang sách, nỗi lo lắng của ta về một chú chim non rơi khỏi tổ, điều ước của mình khi hái một bông hoa cúc. Tất cả những điều nhỏ nhặt này, vốn dĩ bình thường, nhưng lại phi thường đối với chúng ta, không bao giờ các thuật toán có thể nắm bắt được. Chiếc nĩa ấy, câu chuyện vui ấy, khung cửa sổ ấy, quả bóng, hộp giày, quyển sách, chú chim, và bông hoa ấy: tất cả còn sống động như những kỷ niệm quí báu được “giữ gìn” trong sâu thẳm trái tim chúng ta.
21. Cốt lõi thâm sâu này, hiện diện trong mỗi người nam nữ, không phải là cốt lõi của linh hồn, mà là của toàn bộ con người trong căn tính tâm-thể-lý độc đáo của mình. Mọi thứ đều tìm thấy sự thống nhất của nó nơi trái tim, có thể là cư sở của tình yêu trong tất cả các chiều kích tâm linh, tinh thần và ngay cả thể chất của nó. Nói tóm lại, nếu tình yêu ngự trị trong trái tim mình, chúng ta sẽ trở thành – một cách trọn vẹn và sáng ngời – con người mà ta được nhắm trở thành, vì mỗi con người được tạo dựng trước hết là để yêu thương. Trong sâu thẳm hiện hữu của mình, chúng ta được tạo nên để yêu và được yêu.
22. Vì thế, khi chúng ta chứng kiến sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh mới, với sự đồng lõa, dung túng hoặc thờ ơ của các quốc gia khác, hoặc các cuộc tranh giành quyền lực nhỏ nhen vì lợi ích đảng phái, chúng ta có thể thiên về kết luận rằng thế giới của chúng ta đang đánh mất trái tim. Chúng ta chỉ cần nhìn và lắng nghe những cụ bà – từ cả hai phía – những người đang phải điêu đứng bởi những xung đột tàn khốc này. Thật đau lòng khi thấy họ than khóc cho những đứa cháu nội cháu ngoại của mình bị sát hại, hoặc chính họ chỉ mong được chết sau khi mất đi mái nhà mà họ đã gắn bó cả đời. Những người phụ nữ ấy, vốn thường là những trụ cột của nghị lực và của khả năng phục hồi giữa những truân chuyên khổ ải của cuộc sống, giờ đây, vào cuối đời, họ đang trải qua không phải sự nghỉ ngơi xứng đáng, mà chỉ có đau khổ, sợ hãi và phẫn nộ. Việc đổ lỗi cho người khác không giải quyết được những tình cảnh bi thương đáng xấu hổ này. Nhìn những cụ bà này khóc, mà không cảm thấy rằng đây là một điều không thể chấp nhận được, thì đó là dấu hiệu của một thế giới đã trở thành vô tâm.
23. Bất cứ khi nào một người suy nghĩ, chất vấn và suy tư về căn tính thực sự của mình, cố gắng nhận hiểu những vấn nạn sâu xa hơn của đời sống và tìm kiếm Thiên Chúa, hoặc cảm nhận niềm phấn khích khi thoáng thấy sự thật, thì điều đó sẽ dẫn đến nhận thức rằng sự viên mãn của chúng ta trong tư cách con người được tìm thấy nơi tình yêu. Khi yêu, chúng ta cảm thấy mình nhận hiểu được hướng đích sự hiện hữu của mình trên thế giới này. Mọi thứ kết hợp lại với nhau trong tình trạng nhất quán và hài hòa. Khi đó, trong chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc sống của mình, có lẽ câu hỏi quyết định nhất mà chúng ta đặt ra là: “Phải chăng mình có một trái tim?”
LỬA
24. Tất cả những gì chúng ta đã nói đều có những hàm nghĩa cho đời sống tâm linh. Chẳng hạn, thần học ẩn chứa trong sách Linh Thao của thánh Inhaxiô Loyola dựa trên “tình cảm” (affectus). Cấu trúc của Linh Thao giả định một khao khát mạnh mẽ và chân thành muốn “dàn xếp lại” đời sống mình, một khao khát đến lượt nó sẽ cung cấp sức mạnh và phương tiện để đạt được mục tiêu ấy. Các qui tắc và các việc thiết lập khung cảnh mà Inhaxiô cung cấp là để phục vụ cho một điều gì đó quan trọng hơn nhiều, đó là: mầu nhiệm của trái tim con người. Michel de Certeau cho thấy tại sao “các chuyển động” được Inhaxiô nói đến chính là sự “thâm nhập” của ước muốn Thiên Chúa và ước muốn của chính trái tim chúng ta giữa tiến trình mạch lạc của các bài suy niệm. Một điều gì đó bất ngờ và chưa từng được biết đến bắt đầu nói trong trái tim chúng ta, đột phá sự hiểu biết hời hợt của chúng ta và chất vấn nó. Đây là khởi đầu của một tiến trình mới “sắp xếp lại cuộc sống chúng ta”, bắt đầu từ trái tim. Nó không phải là các ý niệm thuộc trí năng cần được đưa vào thực hành trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, như thể tâm cảm và thực hành chỉ đơn thuần là kết quả của các dữ liệu kiến thức và phụ thuộc vào các dữ liệu ấy.[16]
25. Nơi mà tư duy của triết gia dừng lại, thì ở đó trái tim của người tín hữu tiếp tục bước tới vững vàng trong yêu mến và tôn thờ, trong cầu xin sự tha thứ và trong thái độ sẵn sàng phục vụ ở bất kỳ nơi nào Chúa cho phép chúng ta lựa chọn, để đi theo bước chân của Người. Tại thời điểm đó, chúng ta nhận ra rằng trong mắt Thiên Chúa, chúng ta là một “Bạn”, và vì thế chúng ta có thể là một “Tôi”. Quả thật, chỉ có Chúa mới đề nghị đối xử với mỗi người chúng ta như một “Bạn”, luôn mãi như thế. Việc chấp nhận tình bạn của Người là chuyện của trái tim; đó là điều làm cho chúng ta nên như những nhân vị theo nghĩa đầy đủ nhất của từ ngữ này.
26. Thánh Bonaventura nói với chúng ta rằng cuối cùng ta không nên cầu xin ánh sáng, mà là cầu xin “ngọn lửa mãnh liệt”.[17] Ngài dạy rằng “đức tin ở trong trí năng, theo cách khơi dậy tâm cảm. Theo nghĩa này, chẳng hạn, sự hiểu biết rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta không còn chỉ là sự hiểu biết, mà nhất thiết phải trở thành tình cảm, trở thành tình yêu”.[18] Cùng chiều hướng ấy, thánh John Henry Newman đã lấy cụm từ Cor ad cor loquiturlàm châm ngôn của mình, bởi vì, vượt quá mọi tư tưởng và ý niệm của ta, Chúa cứu chúng ta bằng cách ngỏ lời với trái tim chúng ta từ Thánh Tâm của Người. Nhận thức này đã khiến thánh nhân, con người trí thức lỗi lạc, nhận ra rằng cuộc gặp gỡ sâu xa nhất của ngài với chính mình và với Chúa không đến từ việc đọc sách hay suy tư, mà đến từ cuộc đối thoại cầu nguyện của mình, từ trái tim tới trái tim, với Chúa Kitô, Đấng hiện diện sống động. Chính trong Thánh Thể mà Newman đã gặp được trái tim sống động của Chúa Giêsu, có sức giải thoát chúng ta, trao ý nghĩa cho từng khoảnh khắc đời ta, và ban tặng sự bình an đích thực: “Lạy Trái Tim Cực Thánh và tràn đầy yêu thương của Chúa Giêsu, Trái Tim Chúa giấu ẩn trong Thánh Thể, và vẫn đập vì chúng con… Con tôn thờ Trái Tim Chúa với tất cả lòng mến yêu và kính sợ tốt nhất của con, với tình cảm nồng nhiệt của con, với ý chí kiên quyết và kìm nén nhất của con. Lạy Thiên Chúa của con, khi Chúa hạ mình xuống để con được đón nhận Chúa, được ăn và uống Chúa, và trong một khoảnh khắc Chúa ngự trong con, xin hãy làm cho trái tim con hòa nhịp đập cùng Trái Tim Chúa. Xin thanh tẩy trái tim con khỏi mọi thứ phàm tục, mọi kiêu hãnh và nhục dục, mọi khắc nghiệt và tàn nhẫn, mọi sự đồi bại, mọi hỗn loạn, và mọi chết chóc. Xin lấp đầy trái tim con bằng chính Chúa, để những biến cố hằng ngày hay những hoàn cảnh của thời thế đều không đủ sức làm xáo trộn trái tim con, nhưng trong lòng yêu mến và kính sợ Chúa, trái tim con được bình an”.[19]
27. Đứng trước trái tim Chúa Giêsu sống động và hiện diện, tâm trí chúng ta, được Chúa Thánh Thần soi sáng, lớn lên trong sự hiểu biết lời Chúa, và ý chí của chúng ta được thúc đẩy để đưa lời Chúa vào thực hành. Điều này rất dễ nằm lại ở cấp độ một loại chủ nghĩa đạo đức tự lực. Tuy nhiên, việc lắng nghe và cảm nếm Chúa, và việc tôn vinh Chúa cách xứng hợp, là việc của trái tim. Chỉ trái tim mới có khả năng đặt các sức mạnh và đam mê khác của chúng ta, cùng toàn bộ con người chúng ta, vào tư thế tôn kính và vâng phục đầy mến yêu trước Chúa.
29. Vì thế, việc chú trọng trái tim sẽ có những hiệu ứng cho toàn xã hội. Công Đồng Vatican II dạy rằng “mỗi người chúng ta cần thay đổi trái tim; chúng ta phải chăm chú nhìn toàn thế giới và xem xét những nhiệm vụ mà tất cả chúng ta có thể cùng nhau thực hiện hầu mang lại sự cải thiện cho giống loài”.[20] Vì “những sự mất cân bằng đang ảnh hưởng đến thế giới hôm nay thực ra là triệu chứng của sự mất cân bằng sâu xa hơn bắt nguồn từ trái tim con người”.[21] Khi suy ngẫm về những thảm kịch đang gây đau thương cho thế giới chúng ta, Công Đồng thúc giục chúng ta trở về với trái tim. Công Đồng giải thích rằng con người “với đời sống nội tâm của mình, siêu vượt trên toàn bộ vũ trụ vật chất; con người kinh nghiệm chiều sâu nội tâm này khi họ đi vào trái tim của chính mình, ở đó Thiên Chúa, Đấng thăm dò trái tim, đang chờ đợi họ, và ở đó họ quyết định vận mệnh của chính mình trước mặt Thiên Chúa”.[22]
30. Điều này không hề hàm nghĩa rằng chúng ta sẽ cậy dựa quá mức vào khả năng của chính mình. Đừng bao giờ quên rằng trái tim chúng ta không tự túc, mà yếu đuối và bị tổn thương. Nó có được một phẩm giá về mặt hữu thể, nhưng đồng thời nó phải tìm kiếm một sự sống ngày càng có phẩm giá hơn.[23] Công Đồng Vatican II chỉ ra rằng “men của Phúc Âm đã và đang tiếp tục khơi lên trong trái tim con người một cơn khát nhân phẩm khôn nguôi”.[24] Tuy nhiên, để sống phù hợp với phẩm giá này, chỉ biết Phúc Âm hay thực thi cách máy móc các yêu cầu của Phúc Âm thì chưa đủ. Chúng ta cần sự trợ giúp của tình yêu Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy hướng về trái tim Chúa Kitô, cốt lõi bản thể của Người, là lò lửa rực cháy của tình yêu thần linh và nhân loại, và là sự viên mãn tột đỉnh mà con người có thể khao khát. Ở đó, trong trái tim ấy, cuối cùng chúng ta thực sự nhận biết chính mình và chúng ta học biết yêu thương.
31. Cuối cùng, Thánh Tâm Chúa là nguyên lý thống nhất của mọi thực tại, vì “Chúa Kitô là trái tim của thế giới, và mầu nhiệm vượt qua – với cái chết và sự phục sinh của Người – là trung tâm của lịch sử, chính nhờ Người mà lịch sử là lịch sử cứu độ”.[25] Mọi loài thụ tạo “đang tiến về phía trước cùng với chúng ta và qua chúng ta hướng tới một đích điểm chung là Thiên Chúa, trong sự hoàn thành siêu việt, ở đó Chúa Kitô Phục sinh ôm lấy và chiếu soi mọi sự”.[26] Trong sự hiện diện của trái tim Chúa Kitô, một lần nữa tôi cầu xin Chúa xót thương thế giới đau khổ này, nơi Người đã chọn cư ngụ như một trong chúng ta. Xin Người đổ tràn kho tàng ánh sáng và tình yêu của Người, để thế giới chúng ta, đang tiến về phía trước bất chấp chiến tranh, bất chấp những chênh lệch về kinh tế xã hội và về việc sử dụng công nghệ vốn đang đe dọa nhân loại này, có thể lấy lại được điều quan trọng và cần thiết nhất: chính là trái tim của nó!
__________
[14] x. ID., Agonie des Eros, Berlin, 2012.
[15] x.MARTIN HEIDEGGER, Erläuterungen zu Hölderlins Dichtung, Frankfürt a. M., 1981, tr. 120.
[16] x. MICHEL DE CERTEAU, L’espace du désir ou le “fondement” des Lessons Spirituels: Christus 77 (1973), tr. 118-128.
[17] Itinerarium Mentis in Deum, VII, 6.
[18] ID., Proemium in I Sent., q. 3.
[19] THÁNH JOHN HENRY NEWMAN, Những bài Suy niệm và những việc Sùng kính, London, 1912, Phần III [XVI], đoạn 3, tr. 573-574.
[20] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 82.
[21] Ibid., 10.
[22] Ibid., 14.
[23] x.BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên ngôn Dignitas Infinita (ngày 2 tháng 4 năm 2024), 8. X. L’Osservatore Romano, ngày 8 tháng 4 năm 2024.
[24] Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 26.
[25] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Kinh Truyền Tin, ngày 28 tháng 6 năm 1998: L’Osservatore Romano, ngày 30 tháng 6-1 tháng 7 năm 1998, tr. 7.
[26] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 83: AAS 107 (2015), 880.