Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
Thư số 167 / Năm XIV
* * *
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 08/ 2024
-------------
Phần hai
NHEN LÊN Ý THỨC
II
CÁC TIẾN TRÌNH CỦA VIỆC CÙNG PHÂN ĐỊNH
Phan Rang, ngày 20.07.2024
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô - Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Chúng ta tiếp tục hỏi Huấn thị, Phần 2, từ số 45 đến số 51
Trường đời
45. Trung thành để bền đỗ trong ơn gọi là một quà tặng quý giá chứa đựng trong các bình sành, lọ đất (x. 2 Cr 4, 7tt). Trong sự căng thẳng giữa kho tàng người ta lãnh nhận và sự mong manh của đời sống thánh hiến, thì điều chủ yếu là phải giữ được sự cân bằng, đem lại triển vọng cho tiến trình phát triển của mỗi người. Chính từ kinh nghiệm này mà các cơ hội mới dành cho sự sống mới có thể xuất hiện, những cơ hội sẽ góp phần vào việc phục hồi hình dáng cho các khuôn mẫu cũ, nhất là khi người ta biết cách giải thích lại cùng đích của cuộc hành trình ơn gọi theo viễn cảnh có động cơ xây dựng và cảm xúc, một viễn cảnh có khả năng đem lại ý nghĩa cho mỗi cuộc đời. Tất cả những điều này chỉ có được khi ta nhìn vào đời sống thánh hiến như một trường đời, nơi trong tương quan với tha nhân, “tất cả chúng ta biết cách yêu mến Thiên Chúa, yêu thương những anh chị em đang sống với ta và yêu thương nhân loại, đang rất cần đến lòng xót thương của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ” 99 .
Việc xem xét các cuộc xuất tu như một phần của tiến trình phân định – đồng hành có vẻ như là một mâu thuẫn, nhất là khi ta bàn về những người đã sống và đã trải qua những lúc khó khăn và căng thẳng trong các cộng đoàn và Hội dòng.
Thật vậy, việc một anh, chị em xuất tu được cảm nhận như một sự “giải thoát”, thì có một cái gì đó đang hoạt động không tốt trên con đường phân định. Người ta không nên đi đến giai đoạn phân định cuối cùng nhờ các hoàn cảnh loại trừ hay khai trừ khỏi cộng đoàn hoặc Hội dòng: thật vậy, điều này có thể tăng thêm cảm thức thất bại nơi những người ra đi và tạo nên sự bất ổn mới nơi những người ở lại.
46. Ngày nay, ta phải ý thức hơn về khía cạnh giáo dục của một Hội thánh quan tâm đến các anh chị em đang gặp khó khăn và – khi phải đi đến chỗ chọn lựa khó khăn và gian khổ - thì luôn đồng hành với họ trong việc tìm kiếm một con đường khác và những ý nghĩa mới, có thể đem lại ý nghĩa cho việc chọn lựa cuộc sống của họ. Ta cần tận dụng những sức mạnh và tài nguyên vẫn ngủ quên.
Đó là tái khám phá ra chúng để đạt đến những vùng ngoại biên của cuộc sống, không chỉ trong thế giới bên ngoài mà còn cả trong các môi trường bên trong ta. Dễ bi quan khi đương đầu với hiện tượng xuất tu, người ta thường mang thái độ thụ động, buông thả, hay tệ hơn, là phản ứng cách vô trách nhiệm, khi cho rằng mình đã làm hết cách.
Nhưng chính trong những lúc phải định hướng lại cách đớn đau ấy mà ta cần đến nhu cầu đồng hành, giúp đưa ra quyết định về cuộc đời mình, bằng cách đem cho “người ấy một sự nâng đỡ đáng tin hơn và một tình yêu sâu sắc hơn” 100 .
Thật vậy, chính trong những lúc mỏng giòn ấy, mà người ta cảm thấy một nhu cầu lớn hơn trong việc tái khám phá ra ý nghĩa của giao ước Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục canh tân chứ không từ chối, nhất là đối với những ai yếu hèn và lung lay. Cần một sự gần gũi có tính giáo dục, một sự gần gũi có thể giúp tìm lại cội nguồn của con đường sống, tới mức đưa ra những chọn lựa cũng có thể đau đớn như “không chọn lựa”. Việc trình bày lúc xuất tu như một tiến trình của việc đồng hành ơn gọi muốn nói đến việc cùng làm việc hướng đến một sự phân định tiếp tục có ý nghĩa ngay cả và trước hết trong những khoảnh khắc quan trọng và tế nhị của cuộc sống. Theo cách này, việc đương đầu với những lúc đòi phải có những chọn lựa như thế với một viễn cảnh khác là điều có thể xảy ra, một viễn cảnh không loại trừ mà nhận vào, khi tôn trọng những chọn lựa khác nhau của anh chị em mình. Lúc khủng hoảng ấy có thể trở thành một cơ may, một kairos, không chỉ đối với cá nhân mà còn đối với cả cộng đoàn.
Cùng bắt tay nhau làm việc để có được sự phân định chung
47. Vào lúc phân định ban đầu, khi ta cùng nhau giải thích các dấu chỉ, cũng như vào lúc quyết định xuất tu, thì điều cần thiết là phải tái khám phá ra, ý nghĩa sâu xa của ơn gọi xuất phát từ phía Thiên Chúa và ý nghĩa của việc đáp trả từ phía con người vẫn còn bị che khuất trong việc bày tỏ các biến cố, trong các biến cố đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện mình là Đấng đem lại ý nghĩa cho mọi biến cố của sự hiện hữu của con người. Sống thời khắc này với một định hướng rõ ràng và sự nâng đỡ về mặt tình cảm cũng là điều quan trọng.
Theo nghĩa này, ta cần tự trang bị cho mình đầy đủ dụng cụ, không chỉ ở mức độ chuyên nghiệp, để có thể nhận dạng các vấn đề, mà trước hết, trong việc cùng cam kết giải quyết các vấn đề ấy cách rốt ráo. Vì thế, việc cùng phân định vẫn luôn rất quan trọng đối với uy tín và sự đáng tin của đời sống và sứ vụ của những người thánh hiến, trong sự hiệp thông với Hội thánh, cách riêng trong bối cảnh lịch sử hiện nay. Khi kết thúc suy tư về sự phân định, trong Tông huấn Gaudete et exsultate, trong một đoạn văn rất thích hợp, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tóm lược ý nghĩa của cuộc hành trình của ngài như sau: “Khi, trong sự hiện diện của Thiên Chúa, ta kiểm xét lại cuộc hành trình của mình, không một lãnh vực nào không thể không có giới hạn. Trong mọi khía cạnh của cuộc đời, ta vẫn tiếp tục lớn lên và dâng cho Thiên Chúa một cái gì cao cả hơn, ngay cả trong các lãnh vực ta thấy khó khăn nhất. Tuy ta cần xin Chúa Thánh Thần giải thoát ta và xua đuổi nỗi e sợ khiến ta không để cho Ngài đụng đến một số lãnh vực của đời ta. Thiên Chúa xin ta mọi sự, nhưng cũng ban mọi sự cho ta.
Ngài không muốn đi vào để phá hỏng hay làm suy yếu mà để hoàn tất đời ta. Thế nên, phân định không phải là việc tự phân tích theo chủ nghĩa duy ngã hoặc là một hình thức tự xem xét nội tâm cách ích kỷ mà là một tiến trình bỏ mình thật để đến gần mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng luôn giúp ta thực hiện sứ vụ mà chính Ngài đã kêu gọi ta thực hiện, vì lợi ích của anh chị em mình 101 .
Phân định và đồng hành
48. Ra khỏi mình cách hiệu quả, hướng đến mầu nhiệm Thiên Chúa không phải là một nhiệm vụ đơn độc nhưng là một cuộc hành trình trong việc cùng đi với các bạn trẻ, những người trưởng thành, cao tuổi – các thầy, các soeurs – những người đã bắt đầu cùng sống cuộc mạo hiểm của cuộc gặp gỡ có tính biến đổi với Chúa. Đó là cuộc hành trình hướng đến sự trưởng thành đức tin, hướng đến việc trở thành một tín hữu trưởng thành (x. 1 Cr 13, 11 – 12). Ta được mời gọi thực hiện các sự chọn lựa liên quan tới lương tâm mình với tư cách là các tín hữu, được mời gọi để tự quyết định về mình và cuộc sống mình trong tự do và trách nhiệm theo sự thật của kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, vượt quá những rủi ro và bất trắc có thể xảy ra. Cuộc hành trình này tiến triển qua các giai đoạn trong tiến trình đào tạo căn tính mỗi người, trong ý thức không ngừng về một căn tính đã được canh tân của tu sĩ và linh mục.
Việc thực hiện cách dứt khoát tiến trình phân định ở mọi giai đoạn và thực hiện bước đường đời sống thánh hiến – nhờ suy tư về các ý nghĩa, mục tiêu và các phương thức của cuộc sống ấy – bao giờ cũng đi đôi với câu truyện về sự bền đỗ của những người thánh hiến trong việc trung thành với ơn gọi theo Đức Kitô.
Truyền thống vẫn rất khôn ngoan vun xới nếp sống này, một nếp sống bao giờ cũng cho phép can thiệp cách thận trọng và hiệu quả đối với những khó khăn, liều lĩnh. Trong phạm vi này, tiến trình phân định – đồng hành đối với những người thánh hiến, một tiến trình chắc chắn hiện đang đòi hỏi hơn trong quá khứ, bao giờ cũng có tiềm năng được diễn tả cách mới mẻ. Điều khẩn thiết là nhận dạng và đương đầu với những vấn nạn có thể gây lo lắng, nhưng cũng có thể là những dấu chỉ của niềm hy vọng. Việc đồng hành và phân định là hai điều không thể tách rời: một xảy ra trong những tiến trình phân định khác nhau và một lại được nuôi dưỡng và luôn mặc hình thức của việc đồng hành.
49. Trong số các dấu chỉ của niềm hy vọng ta ghi nhận cách riêng, việc không ngừng khắc phục não trạng có khuynh hướng kết án những ai rời bỏ đời sống thánh hiến, nhưng lại chối bỏ trách nhiệm của Hội dòng. Hơn 50 năm sau Công Đồng Vatican II, kinh nghiệm của các cộng đoàn phân định – đồng hành dành cho những ai đang trải qua những hoàn cảnh khó khăn trong đời sống thánh hiến, đã phát triển. Cũng đang có một nhận thức không ngừng lớn mạnh về thừa tác vụ phân định – đồng hành không chỉ cho những người đang trải qua thời kỳ khủng hoảng mà còn cho cả những ai, trong khi vẫn bền đỗ, muốn làm mới lại ý thức về sự trung thành của mình. Thừa tác vụ này được mời gọi đương đầu, chứ không tránh né, những vấn đề rắc rối của những người thánh hiến; thừa tác vụ này phải kết hợp kinh nghiệm với tài năng chuyên môn, trong việc khẩn cầu ơn khôn ngoan của cõi lòng. Thừa tác vụ này cũng thực hiện việc ngăn chặn thận trọng để đương đầu với những hoàn cảnh bi đát bằng một cảm thức sâu đậm về tình yêu dành cho Hội thánh.
Việc đào tạo lương tâm
50. Nền tảng của mỗi cuộc bàn thảo về sự phân định và đồng hành chính là một lương tâm đạo đức và đáng tin. Vì thế mà, chủ đề căn bản về lương tâm và việc đào tạo lương tâm, bao giờ cũng dựa vào bối cảnh của cuộc hành trình này. Khả năng phân định này không thể tách rời khỏi việc đào tạo các lương tâm: “Chúng ta được gọi để huấn luyện chứ không thay thế các lương tâm ấy” 102 .
Trong nền văn hóa hiện nay, khi ám chỉ tới lương tâm, ta thường thích chuyển giao ý tưởng gần gũi với mình và nặng tính cá nhân chủ nghĩa. Nhưng trọng tâm của lương tâm “không có nghĩa là theo đuổi cái tôi của mình, làm những gì hấp dẫn tôi, thích hợp với tôi, những gì tôi thích” 103 . “Lương tâm là cõi thẳm sâu bí mật, là cung thánh của con người” 104 . Lương tâm trùng hợp với căn tính của mỗi người, với lịch sử ít nhiều rắc rối của nó: các mối tương quan, những tình cảm, nền văn hóa thuộc về. Lương tâm cũng được hình thành nhờ các mối tương quan tốt đẹp, nơi người ta kinh nghiệm được điều tốt ấy là điều đáng cho họ hiến dâng cuộc sống. Cách riêng, những kinh nghiệm đầu tiên ấy có tính quyết định đối với việc huấn luyện lương tâm, những kinh nghiệm có liên quan tới các mối tương quan gia đình, một trường học đích thật về nhân bản. Chính trong kinh nghiệm của việc là con cái mà mỗi người học được cách lắng nghe sự thật, sự tốt lành và Thiên Chúa. Trong những kinh nghiệm về sự tốt lành này, một lương tâm có luân lý bao giờ cũng nhận ra mối tương quan sâu đậm với Ngài, Đấng luôn lên tiếng với trái tim con người và luôn giúp họ phân định, hiểu thấu được con đường trước mắt và cứ mãi trung thành 105 . Trước hết, điều cần thiết là phải ngoan nguỳ với Lời Thiên Chúa, sẵn sàng đối với những sự bất ngờ của Chúa, Đấng vẫn đang lên tiếng.
Lời Thiên Chúa kêu gọi, luôn âm vang trong sự tốt lành, bao giờ cũng đòi một sự đáp trả nghiêm khắc: cũng như đối với dân Do thái trong hoang địa thế nào (x. Đnl 8, 2), lương tâm của các Kitô hữu cũng phải trải qua thời gian thử thách, thời gian nan, khốn khó như thế. Đó là lúc những gì ta thật sự quan tâm được đưa ra ánh sáng. Vì thế mà lịch sử bản thân luôn được đánh dấu bằng thử thách và, thỉnh thoảng bằng thất bại và vỡ mộng, những thứ luôn mạnh mẽ thách thức ta đảm nhận một nền đào tạo lương tâm triệt để hơn, một chiều kích quan trọng của sự phân định. Hiểu được linh hồn con người đòi hỏi nhiều khả năng và thậm chí, đó còn là một cách dạy ta biết “sự nhẫn nại và kế hoạch hành động của Thiên Chúa, những thứ không bao giờ là của ta” 106 . Việc trung thành với ký ức về Chúa Giêsu, được sống trong một nếp sống nào đó, bao giờ cũng đòi phải đảm nhận trách nhiệm có tính đòi buộc này, một trách nhiệm không thể không được chuẩn bị, hay uỷ thác hoặc phó mặc cho những người đồng hành vô trách nhiệm.
Trong phạm vi của chủ đề rộng lớn về lương tâm này và các mối tương quan của nó, bây giờ ta muốn đưa ra một vài hình thức căn bản của việc phân định và đồng hành.
Tự biết mình
51. Những người thánh hiến nhìn nhận ơn gọi của mình chính là một ân ban được sống với lòng biết ơn sâu sắc đối với Chúa. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại với giới trẻ: “Cuộc sống Chúa Giêsu ban cho ta là một câu truyện tình, một cuộc sống mà lịch sử muốn hoà trộn với cuộc sống ta và cắm rễ sâu trong mảnh đất của cuộc sống ta. […]. Ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho ta là một lời mời gọi trở thành một phần của câu truyện tình được đan dệt bằng các câu truyện của bản thân ta; đó là câu truyện tình sống động và luôn muốn được sinh ra nơi ta hầu ta có thể sinh hoa trái hệt như ta là, ở bất cứ nơi nào ta ở và với mọi người chung quanh ta. Chúa bao giờ cũng đến đó để gieo vãi và để được vãi gieo” 107 . Sự sống ở đây được hiểu là một ân ban làm cho khát vọng restitutio 108 theo nghĩa, lợi ích của tha nhân, phát triển. Đây là một tiến trình hoán cải không thể coi nhẹ việc tự biết mình trong cõi thẳm sâu của mình. Việc đích thân biết mình này trở thành tiêu chuẩn giải thích mọi sự phân định và mọi chọn lựa.
Khoảnh khắc ban đầu của việc biết mình này là một sự phân định thật về tình cảm. Trước khi là việc biết mình cách tri thức hay cố gắng hiểu, thì việc tự biết mình bao giờ cũng là lắng nghe những tình cảm, những cảm xúc của ta. Vì không dìm mình vào trong sự tự biết mình theo kiểu tự yêu mình, nên việc tự biết mình ấy đúng ra là việc không tự che đậy bất cứ thứ cảm xúc, tình cảm nào, vì sợ coi những tình cảm ấy là xấu. Thật ra, tất cả những gì bị kiềm chế, sẽ đều trở lại với những hình thức khác và trở thành một thứ nọc độc phá hỏng đời sống cá nhân và cộng đoàn.
Nhờ việc phân định những tình cảm ấy, ta có thể lắng nghe lời kêu gọi của Thiên Chúa, một lời kêu gọi bao giờ cũng đến với ta nhờ lịch sử của cá nhân, của cộng đoàn, xã hội và Hội thánh, với những tình cảm và khát vọng lời mời gọi ấy khơi lên nơi ta. Vì thế, khi được nhìn nhận và chấp nhận như một lời kêu gọi, thì việc tự biết mình này bao giờ cũng có được sự thật rõ ràng về chính mình, một sự thật khiến ta không thể không trung thành. Điều đặc biệt ý nghĩa là sự bền đỗ bao giờ cũng được bao hàm trong tiến trình thực hiện quyết định về cuộc sống của con người và bao giờ cũng tự thể hiện trong sự bền đỗ trung thành với sự thật về mình, vì sự thật ấy xuất hiện trong lịch sử của con người nhờ những kinh nghiệm sống. Thật ra, chỉ việc tự biết mình ấy mới có thể giúp con người bước một bước quyết định hướng tới tương lai, một tương lai người ta không biết là gì và tới sự bền đỗ trong bậc sống mình, mà cả trong những khó khăn, vẫn kiên trì với việc chọn lựa cuộc sống của mình.
_______________
Chú thích:
99. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Fraternal Life in Community. Congregavit nos in unum Christi amor, (02. 02. 1994), 25.
100. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata, (25. 3. 1996), 70
101. Phanxicô, Gaudete et exsultate (19. 3. 2018), 175
102. Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia, (19. 3. 2016), 37.
103. Phanxicô, Angelus, Vatican (30. 6.. 2013).
104. Công Đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ về Hội thánh, Gaudeum et spes, 16.
105. Phanxicô, Angelus, Vatican (30. 6. 2013).
106. Phanxicô, Gaudetet et exsultate, (19. 3. 2018), 174.
107. Phanxicô, Bài nói chuyện khi Canh thức với người trẻ nhân dịp Đại Hội Giới Trẻ Thế giới lần thứ XXXIV, tại Panama, Panama, (26. 01. 2019).
108. Restitutio nghĩa là phục hồi.
============