Thư chung số 165 -06/2024

Thứ tư - 30/07/2025 21:22
Thư chung số 165/2024
Thư chung số 165 -06/2024
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
     Thư số 165 / Năm XIV
                    * * *                              
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 06/ 2024
-------------
Phần hai
NHEN LÊN Ý THỨC
I
TRUNG THÀNH VÀ BỀN ĐỖ

                                                                                            Phan Rang, ngày 20.05.2024
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
          Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô - Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
          Tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Để tỏ lòng sùng kính Thánh Tâm Người, xin anh chị em đọc Kinh Dâng Mình cho Thánh Tâm mỗi ngày sau Hiệp Lễ. Những Anh chị em sống cộng đoàn, nên đọc Kinh Cầu Trái Tim Chúa Giêsu trước giờ Kinh Tối. Cảm ơn anh chị em.
Chún ta tiếp tục học hỏi Huấn thị phần 2, tiếp theo từ số 30 đến số 34

Tình yêu tuyệt đối và độc chiếm
30. Thánh Phaolô VI, trong giáo huấn của ngài về chức linh mục và về đời sống thánh hiến, đã nhấn mạnh ý nghĩa của sự trung thành bền đỗ và của việc hiến toàn thân của những người thánh hiến. Đức Thánh Cha, cả khi không đề cập cách trực tiếp, vẫn mô tả bền đỗ là một bảo đảm rằng những người được thánh hiến đã dâng hiến cuộc đời cách dứt khoát, không thể huỷ bỏ và hoàn toàn trung thành với việc dâng hiến đó.
Trong Thông Điệp Sacerdotalis caelibatus năm 1967, về sự độc thân của các linh mục, ngài khích lệ tình yêu chân thành, một tình yêu “thật, một tình yêu bao gồm tất cả, ổn định và bền lâu, một sự thôi thúc không thể cưỡng lại được đối với mọi hình thức của chủ nghĩa anh hùng” 56 . Cũng trong năm ấy, trong Sứ điệp cho Ngày Ơn gọi Thế giới, ngài lại nhấn mạnh tính tuyệt đối của ơn gọi đến với một cuộc đời biệt hiến: “Từ ngữ ơn gọi nào đạt được ý nghĩa trọn vẹn, chắc chắn có khuynh hướng trở nên đặc biệt và hoàn hảo, nếu không muốn nói là độc nhất, ở chỗ có một ơn gọi đặc biệt gấp đôi: vì đó là ơn gọi trực tiếp từ Thiên Chúa hệt như tia sáng chói chang trong các chỗ thẳm sâu và thân tình nhất của ý thức; và vì ơn gọi ấy tự diễn tả cách thực tiễn trong việc hiến toàn thân cho một tình yêu tối thượng, duy nhất: tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của anh chị em, tình yêu của anh chị em xuất phát từ tình yêu thứ nhất và là một với tình yêu ấy” 57 .
Cách đặc biệt sáng suốt có lẽ là Tông Huấn Evangelica testificatio năm 1971, trong đó, Thánh Phaolô VI xin các nam nữ tu sĩ làm chứng cho những người thuộc thời đại mình, về một nếp sống hợp nhất và cởi mở, một nếp sống chỉ có thể đạt được nhờ việc đích thân gắn bó với Thiên Chúa hằng sống 58 . Đức Giáo Hoàng liên kết việc làm chứng của những người thánh hiến với sự bền đỗ trong đời.
Trong giáo huấn ấy, Thánh Phaolô VI đòi phải nhấn mạnh cách đặc biệt chủ đề về sự trung thành. Ngài yêu cầu các Tu hội đời “có nhiệm vụ phải trung thành”, trung thành “với ơn gọi riêng của mình”, một ơn gọi tự thể hiện trước hết trong sự trung thành với việc cầu nguyện, “nền tảng của sức mạnh và của việc sinh hoa kết trái” 59 .
Trong các tài liệu sau đó, trung thành ngày càng được mô tả là một động lực của sự phát triển, trong sự phát triển ấy, sự bền đỗ đòi phải có việc dấn thân cần thiết và kiên định của những người thánh hiến, và của chính các Tu hội ấy. Sự bền đỗ bao giờ cũng có được giá trị ngày một rõ ràng hơn của việc làm chứng cho sự trung thành của Thiên Chúa đối với giao ước đã được thiết lập với người thánh hiến, thậm chí trước cả khi được chính người thánh hiến thiết lập.
Suốt Thượng Hội Đồng về Đời sống thánh hiến, mối tương quan giữa trung thành và bền đỗ ngày càng được đào sâu, và sự trung thành được coi là từ khoá để tóm tắt và mô tả các giá trị quan trọng khác nhau của đời sống thánh hiến.

Đức Maria khuôn mẫu của sự bền đỗ
31. Đức Trinh Nữ Maria bao giờ cũng được ám chỉ như là khuôn mẫu và sự nâng đỡ duy nhất của “sự bền đỗ trong trung thành” của những người thánh hiến. Thánh Gioan Phaolô II trong lời kết của Tông Huấn Redemptionis donum đã khẩn cầu Mẹ: “Trong số mọi người được hiến thánh cách không dè sẻn cho Thiên Chúa, Mẹ là người số một – Đức Trinh Nữ thành Nazaret – và cũng là người duy nhất hiến thánh trọn vẹn nhất cho Thiên Chúa, hiến thánh cách hoàn hảo nhất, […]. Sự bền đỗ trong trung thành với Đấng luôn trung thành, bao giờ cũng cố hết sức tìm được sự nâng đỡ rất đặc biệt của Đức Maria đấy! Vì mẹ được Thiên Chúa kêu gọi tới sự hiệp thông trọn vẹn nhất với Con Ngài. Ước gì mẹ, Đức Trinh Nữ trung thành, cũng là Mẹ duy nhất của các con theo cách thế của tin mừng; xin Mẹ giúp các con kinh nghiệm và tỏ cho thế giới này biết chỉ Thiên Chúa là Đấng trung thành đến muôn thuở muôn đời thôi! 60 .
Thành ngữ “bền đỗ trong trung thành” luôn tạo nên một trong những chìa khoá giải thích hiệu quả nhất cho việc đọc Tông huấn Vita Consecrata. Trong Tông huấn ấy, sự bền đỗ có liên quan trực tiếp tới chính sự trung thành, vượt quá những cách diễn tả khác nhau. Sự bền đỗ, ngay cả trước khi được kết hợp với sự trung thành với luật lệ hay đặc sủng, thì đã có liên quan cách chính xác với sự trung thành với Thiên Chúa, như một loại tổng hợp toàn bộ cách suy tư của Huấn quyền.

Con đường phát huy sự trung thành
32. Suốt dòng lịch sử cứu độ, sự trung thành của Thiên Chúa đối với con người tự thể hiện trong công cuộc sáng tạo. Vì thế mà, sự trung thành của ta bao giờ  cũng trái nghịch với sự bất động, sự trung thành ấy được gọi là năng động, như Vita consecrata 61 nhấn mạnh: những gì ta muốn duy trì bao giờ cũng phải liên tục cập nhật. Nên trung thành bao giờ cũng đi đôi với sáng tạo: một cái gì đó phải thay đổi và một cái gì đó phải giữ lại. Điều quan trọng là phải phân định xem trong sự bền đỗ ta buộc phải giữ lại gì, ta có thể và phải thay đổi gì.
“Đây là ý nghĩa của lời kêu gọi vào đời sống thánh hiến: ơn gọi đó là một sáng kiến hoàn toàn xuất phát từ Chúa Cha (x. Ga 15, 16), Đấng luôn đòi những người Ngài chọn đáp trả với sự dấn thân hoàn toàn và tuyệt đối. Kinh nghiệm về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa này sâu và mạnh đến độ người được gọi bao giờ cũng cảm nhận được nhu cầu đáp trả qua việc hiến mình cho Thiên Chúa cách vô điều kiện, hiến dâng cho Ngài mọi sự thuộc hiện tại và tương lai, đặt mình trong bàn tay Ngài” 62 .
Nếu sự trung thành tuyệt đối với sự hiệp thông đặc biệt của tình yêu với Chúa Cha có nghĩa là trung thành với ơn gọi, với việc hiến dâng và với sứ vụ được Chúa Cha chấp nhận, thì sự trung thành với Đức Kitô không chỉ được đặt nền tảng trên bí tích thánh tẩy mà còn trên giao ước phu thê. Thánh Gioan Phaolô II viết trong Vita consecrata: “ta có thể nói rằng đời sống thiêng liêng, được hiểu là đời sống trong Đức Kitô hay đời sống theo Thần khí, luôn tự thể hiện mình như con đường phát huy sự trung thành, trên con đường ấy, người được thánh hiến luôn được Thần khí hướng dẫn và làm cho nên đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô, trong sự hiệp thông trọn vẹn với tình yêu và với sự phục vụ trong Hội thánh” 63 . Được đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô có trước mọi việc phục vụ, mọi hoạt động, đến độ sự trung thành với Đức Kitô của những người thánh hiến có thể làm cho họ thành việc trải rộng sự hiện diện đặc biệt của Đấng Phục sinh trong lịch sử 64 .
Chính trong sự trung thành với Chúa Thánh Thần 65 mà mọi người thánh hiến bao giờ cũng có thể trung thành với căn tính của mình hơn 66 , trung thành tới mức sự đồng trinh vì Nước Thiên Chúa “là một phản ánh của tình yêu vô biên liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa lại trong cõi thẳm sâu nhiệm mầu của sự sống của Ba Ngôi. Đó là một tình yêu mà Ngôi Lời Nhập Thể luôn làm chứng cho, làm chứng đến mức hy sinh mạng sống. Đó là một tình yêu “được đổ vào lòng ta nhờ Chúa Thánh Thần” (Rm 5, 5), một tình yêu khơi lên việc đáp trả tình yêu toàn diện của Thiên Chúa và anh chị em mình” 67 .

Bền đỗ trên con đường thánh thiện
34. Thế nên, những người thánh hiến, bao giờ cũng được ơn gọi sống tư cách người môn đệ và việc đi theo Đức Kitô, kêu mời. Đó là sự đáp trả của tình yêu – một tình yêu ám chỉ việc hoàn toàn gắn bó với Đức Kitô trong việc trao hiến chính mình, thậm chí khi cần sẵn sàng hiến mình trong việc tử đạo.
Thánh Gioan Phaolô II tái khẳng định rằng sự bền đỗ đích thật trong việc đi theo Đức Kitô, bao hàm cả khía cạnh tử vì đạo, phải được những người thánh hiến sống trong việc thực hành mối tương quan đơn giản và thường xuyên với đặc sủng sáng lập 68 .
Sự bền đỗ của những người thánh hiến luôn bao hàm việc đi theo con đường do qui luật và Hiến pháp của Hội dòng cung cấp, con đường này trùng khớp với con đường của thánh thiện trong đó, họ được kêu gọi bền đỗ, để được đồng hình, đồng dạng với Đức Kitô, đến mức có thể là những chứng nhân và những hợp tác viên trong công trình cứu chuộc của Đức Kitô.
Đối với cộng đoàn cũng như cá nhân những người hiến thánh, việc đi theo Đức Kitô được thực hiện trong mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm được sống trong “sự tin tưởng không hề lay chuyển vào vị Chúa của lịch sử” 69 , một mầu nhiệm được thực hiện với các bằng chứng rõ ràng nhất trong sự bền đỗ.
Mặt khác, Vita consecrata cũng nhắc lại “trong thế kỷ này cũng như trong các giai đoạn khác của lịch sử, những người thánh hiến đã làm chứng cho Chúa Kitô, qua việc hiến dâng chính mình ra sao. Hàng ngàn người trong số họ vẫn đang bị các các cuộc bách hại của các chế độ độc tài chuyên chế hay các nhóm khủng bố đẩy vào cõi chết, hay vẫn đang bị quấy nhiễu khi tham gia các hoạt động thừa sai, các hoạt động nhân danh người nghèo, tham gia việc trợ giúp những người đau ốm, bị hất ra bên lề xã hội; nhưng họ đã và vẫn đang tiếp tục sống sự thánh hiến của mình trong đau khổ triền miên cách anh hùng và thường với việc đổ máu, được đồng hình đồng dạng với Chúa Chịu Đóng Đinh cách hoàn hảo” 70 . Đối với những người đã bền đỗ trong tình yêu đến độ hy sinh mạng sống này, tông huấn ký thác cho họ nhiệm vụ chuyển cầu cho sự trung thành của mọi người thánh hiến 71 .
______________ 
Chú thích:
56. Phaolô VI, Thông Điệp Sacredotalis caelibatus (24. 6. 1967), 24.
57. Phaolô VI, Sứ điệp cho Ngày Cầu nguyện Ơn gọi Thế giới lần thứ VI, (5. 3. 1967).
58. Xem Phaolô VI, Tông Huấn Evanglica testificatio, (29. 6. 1971), 34.
59. Phaolô VI, Bài nói chuyện với các Công đồng điều hành của các Tu hội Đời tại bốn châu lục, Vatican (25. 8. 1976).
60. Gioan Phaolô II, Tông huấn Redemptionis donum, (24. 3. 1984), 17.
61. Xem Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata, (25. 3. 1996), tr. 70.
62. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata, (25. 3. 1996), tr. 17.
63. Ibid., (25. 3. 1996), 93.
64. Ibid., 19.
65. Ibid., 62.
66. Ibid., 71.
67. Ibid., 21.
68. Xem Ibid., 37.
69. Ibid, 63.
70. Ibid., 86.
71. Ibid.
                                                          ==========

 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây