Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
Thư số 166 / Năm XIV
* * *
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 07/ 2024
-------------
Phần hai
NHEN LÊN Ý THỨC
I
TRUNG THÀNH VÀ BỀN ĐỖ
Phan Rang, ngày 20.06.2024
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô - Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Chúng ta tiếp tục hỏi Huấn thị, Phần 2, từ số 35 đến số 44
Đời sống huynh đệ: nơi đặc biệt của sự bền đỗ
35. Sau Công đồng, Huấn quyền đã khai triển và đào sâu một suy tư không ngừng về vai trò của đời sống huynh đệ trong sự bền đỗ của những người thánh hiến. Thật vậy, với quyết tâm ngày một tăng, đời huynh đệ trong cộng đoàn và các mối tương quan được thiết lập trong đời sống ấy, vẫn luôn được coi là các khía cạnh đặc biệt của việc đi theo Đức Kitô của những người thánh hiến. Mặt khác, điều thật ý nghĩa trong giáo huấn của Công đồng, đó là đời sống chung đang được nhận định cách chính xác như chủ đề đầu tiên của ơn gọi bền đỗ:
“Đời sống chung, được phác hoạ theo mô hình của Hội thánh tiên khởi, nơi đoàn tín hữu một lòng, một trí với nhau” (Cv 4, 32) và được giáo huấn của tin mừng, phụng vụ thánh và nhất là Thánh thể, ban cho một sức mạnh mới, phải được tiếp tục sống trong cầu nguyện và trong sự hiệp thông của cùng một tinh thần” 72 . Vì thế mà, cộng đoàn tông đồ tại Giêrusalem, được đề nghị như một mô hình của đời tu, để đời sống ấy có thể đáp trả mọi thách thức của lịch sử đương thời.
Huấn quyền giới thiệu các phương thế nhằm canh tân và nuôi dưỡng đời sống huynh đệ: Tin mừng, Phụng vụ Thánh thể và cầu nguyện. Những phương thế này sẽ không ngừng được khơi lên trong các văn kiện sau đó và được khai thác sâu hơn trong Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô 73 . Huấn thị từ từ chỉ cho thấy rằng để có một cuộc sống hiệp thông thật thì không chỉ cầu nguyện là quan trọng thôi mà cả sự bền đỗ của mỗi thành viên của cộng đoàn trong cuộc hành trình gắn bó với Đức Kitô nữa, sự gắn bó ấy cũng được nhìn nhận qua việc để tâm tới các mối tương quan trong cộng đoàn. Huấn thị cũng lưu ý rằng sự bền đỗ của mỗi người luôn nằm trong mối tương quan hỗ tương với sự bền đỗ của cộng đoàn.
Việc đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của anh chị em
36. Mối liên kết vững mạnh giữa đời sống huynh đệ theo tin mừng đích thật với khả năng thật sự của việc đào tạo các tu sĩ trẻ của cộng đoàn vẫn được Bản Chỉ Đạo Potissinum institutioni 74 tái khẳng định cách đầy đủ. Một lần nữa, qua việc qui chiếu về “diệu cảm sáng lập” của Hội thánh, được mô tả trong Công vụ Tông đồ, như “hoa quả của cuộc Vượt qua của Chúa”, văn kiện này nhắm đến các điều kiện và yêu cầu mà khuôn mẫu ấy đòi phải có 75 : chủ nghĩa hiện thực khiêm tốn và một thái độ đức tin, việc bỏ mình và đón nhận ơn của Thần khí, tất cả những đặc điểm ấy đều thích hợp với sự bền đỗ.
37. Huấn thị Đời sống Huynh đệ trong cộng đoàn, Congregavit nos in unum Christi amor 76 đánh dấu sự chín mọng của giá trị căn bản của đời sống chung, như một sự nâng đỡ và lời thề bền đỗ. “Chất lượng của đời sống huynh đệ - Huấn thị khẳng định – có một tác động ý nghĩa đối với sự bền đỗ của cá nhân mỗi tu sĩ. Chất lượng tồi tệ của đời sống huynh đệ, như nhiều người vẫn thường đề cập tới chính là lý do khiến người ta bỏ tu thế nào, thì tình huynh đệ được sống cách trọn vẹn đã và vẫn đang là một sự nâng đỡ quý giá cho sự bền đỗ của nhiều người như vậy. Trong một cộng đoàn huynh đệ đích thật, mỗi thành viên đều có ý thức về việc đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của người khác; mỗi người đều góp phần vào bầu khí thanh bình của việc chia sẻ đời sống, sự hiểu biết, việc giúp đỡ lẫn nhau; mỗi người đều để ý tới những lúc mệt mỏi, đau khổ, cô lập hay thiếu động lực nơi tha nhân; mỗi người đều đỡ đần những ai đang u buồn vì khó khăn và thử thách. Như thế, các cộng đoàn tu, trong việc nâng đỡ sự bền đỗ của các thành viên của cộng đoàn mình, cũng đạt được giá trịvề dấu chỉ của sự trung thành sắt son của Thiên Chúa, và như thế cũng trở nên một sự đỡ nâng cho đức tin và sự trung thành của các Kitô hữu, những người đang đắm chìm trong các biến cố của thế giới này, nơi những con đường của sự trung thành đang dường như ngày một ít được biết đến hơn” 77 .
38. Khía cạnh cộng đoàn của sự bền đỗ, ta có thể tìm được trong hầu hết các văn kiện gần đây, với trọng tâm được thêm vào cách ý nghĩa. Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô coi việc đào tạo như là chỗ đặc quyền để có thể bền đỗ trong sự dấn thân của cả Hội dòng lẫn người thánh hiến 78 . Cuối cùng, huấn thị, The Service of Authority and Obedience 79 , uỷ thác cho các bề trên, với tư cách là những người bảo đảm và phát huy đời sống huynh đệ đang được sống cách đích thật theo tin mừng, nhiệm vụ chăm sóc và quan tâm đến sự bền đỗ của mỗi tu sĩ được uỷ thác cho mình 80 .
Bền đỗ trong cầu nguyện
39. Trong các văn kiện của Huấn quyền, chủ đề về cầu nguyện chính là đặc điểm của mối tương quan giữa bền đỗ và trung thành. Sự nâng đỡ đầu tiên cho sự bền đỗ mà những người thánh hiến được mời gọi để tâm tới nằm trong việc không ngừng cầu nguyện cho được ơn trung thành: “mọi người trong họ phải khiêm tốn và kiên trì hơn trong việc cùng với Hội thánh cầu xin cho được ơn trung thành, một ơn hễ ai tìm kiếm với tâm hồn chân thành đều không bao giờ bị từ chối” 81 .
Cách đặc biệt, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô, đã đào sâu và khai triển suy tư về Chúa Thánh Thần trong việc cầu nguyện và trong sự bền đỗ của những người thánh hiến. Huấn thị ấy thúc đầy việc mở ra cho hơi thở trao ban sự sống của Chúa Thánh Thần, Đấng luôn trở thành tác giả của sự bền đỗ cần thiết của người thánh hiến 82 .
Hoạt động của Thần khí không làm giảm bớt trách nhiệm của những người thánh hiến trong cam kết suốt đời của họ. Trái lại, chính sự bền đỗ của họ mới cấu thành mục đích và là chính phương thế của cuộc chiến đấu thiêng liêng, một cuộc chiến huy động mọi nhân đức của con người vào hoạt động, giải thoát họ để họ bảo vệ các ân sủng đã lãnh nhận và giúp họ có thể hằng ngày canh tân giá trị của họ trong động lực hoán cải không ngừng. Huấn quyền chưa bao giờ coi nhẹ khía cạnh căn bản này của sự bền đỗ.
Đào tạo: nền tảng của sự bền đỗ
40. Ý thức ngày một tăng về tầm quan trọng của đào tạo trong sự bền đỗ của những người thánh hiến và trong khả năng cố đạt được sự bền đỗ ấy của họ, có được cách diễn tả hoàn chỉnh và chín chắn nhất trong Bản Chỉ đạo Potissium institutioni. Thật vậy, toàn bộ văn kiện này dường như do khát vọng muốn tiếp thêm sinh lực cho phẩm chất của đời sống thánh hiến và sự bền đỗ của cá nhân những người thánh hiến thúc đẩy, nhờ các chương trình đào tạo thích hợp.
Người ấy được kêu gọi mở lòng ra cho hai thái độ căn bản, biểu tượng của cuộc chiến đấu thiêng liêng: “khiêm nhường, một nhân đức làm cho người ta từ bỏ mình để có được sự khôn ngoan của Thiên Chúa; và sự hiểu biết và thực hành việc phân định thiêng liêng […] hầu có thể nhận ra sự hiện diện của Thần khí trong mọi khía cạnh của cuộc sống và lịch sử” 83 . Văn kiện này nhắc ta nhớ rằng trong việc phân định ý Thiên Chúa, sự trung gian nhân phàm của người hướng dẫn thiêng liêng rất cần thiết, đến độ người thánh hiến có thể thực hành việc mở lòng ra, một sự mở lòng vẫn là một trong những phương thế quan trọng và truyền thống hơn của cuộc chiến thiêng liêng. Điều này không làm vơi nhẹ trách nhiệm của mỗi người thánh hiến đối với việc đào tạo của mình 84 .
41. Trong động lực này ta nhận ra tầm quan trọng của việc đào tạo liên tục, một nền đào tạo đẩy cả người thánh hiến lẫn Hội dòng tới việc “không ngừng kiểm xét về sự trung thành với Chúa; về sự ngoan nguỳ đối với Thần khí của Ngài […] việc thường xuyên hiến mình; lòng khiêm nhường khi chịu đựng những nghịch cảnh” 85 .
Thánh Gioan Phaolô II trong Vita consecrata không ngừng ám chỉ tới chiều kích cộng đoàn của cuộc chiến đấu thiêng liêng hướng đến sự thánh thiện.
Trong Tông huấn ấy, ngài mời gọi các Hội dòng can đảm đương đầu với “những khó khăn về vật chất và tinh thần của cuộc sống hằng ngày”, can đảm hoàn toàn mở lòng ra cho sự linh hứng của Thiên Chúa và cho sự phân định của Hội thánh” 86 .
Niềm vui bền đỗ
42. Huấn thị Đời sống Huynh đệ trong Cộng đoàn đưa ra một nhân tố khác khẳng định sự trung thành và bền đỗ: niềm vui. Ta có thể nhận ra thước đo căn bản của đời sống huynh đệ trong “chứng tá của niềm vui” của toàn bộ tình huynh đệ, một niềm vui “khiến những người thánh hiến can đảm hơn” trong sự bền đỗ. “Ta không được quên rằng bình an và niềm vui trong việc ở với nhau bao giờ cũng là một trong những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Niềm vui khi sống cả trong những lúc khó khăn trên con đường nhân bản và thiêng liêng lẫn trong những phiền toái của cuộc sống hằng ngày đã là một phần của Nước Thiên Chúa rồi. Niềm vui ấy chính là hoa quả của Thần khí và bao giờ cũng bao hàm sự giản dị của cuộc sống và kết cấu đơn điệu của cuộc sống hằng ngày.
Tình huynh đệ không có niềm vui là một tình huynh đệ chết; vì sớm muộn gì các thành viên sẽ bị cám dỗ tìm ở những nơi khác những gì họ không còn tìm được ở nhà mình nữa […] 87 .
Hiến chế Lumen gentium đã mô tả các gia đình dòng tu như một phương thế để gia tăng “niềm vui thiêng liêng trên con đường đức ái” 88 . Huấn quyền sau đó lại nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa chứng tá của một cuộc sống biệt hiến và niềm vui, cách riêng nhờ sống tình huynh đệ. Đời sống huynh đệ cộng đoàn tiếp: “Những người đương thời của ta muốn thấy nơi những người thánh hiến niềm vui xuất phát từ việc ở với Chúa” 89 , niềm vui của việc vẫn trung thành 90 , hoa trái của việc “gặp gỡ yêu thương hằng ngày với Lời” 91 .
Các cộng đoàn, ắp đầy niềm vui và Chúa Thánh Thần ấy (Cv 13, 52), “trong đó, người ta khắc phục cô đơn nhờ biết quan tâm lẫn nhau, trong đó, việc truyền thông bao giờ cũng khơi lên nơi mọi người một cảm thức về trách nhiệm được chia sẻ và trong đó các thương tích được chữa lành nhờ sự tha thứ và nhờ việc mỗi người đều dấn thân cho sự hiệp thông luôn được củng cố. Bản chất của đặc sủng trong các cộng đoàn loại này luôn hướng dẫn các năng lực, duy trì sự trung thành và hướng việc tông đồ của mọi người đến một sứ vụ duy nhất” 92 . Các cộng đoàn ấy trở thành nơi loan báo tin mừng, “nơi của hy niềm hy vọng và của việc khám phá ra Tám mối phúc, nơi tình yêu, kín múc được sức mạnh nhờ cầu nguyện, (thành) suối nguồn hiệp thông, luôn được kêu gọi trở thành một khuôn mẫu của sự sống và nguồn mạch của niềm vui” 93 .
43. Tông huấn Vita consecrata mời gọi các phụ nữ thánh hiến cách riêng, sống ơn gọi của mình “trong sự sung mãn và hân hoan” 94 , thành “các dấu chỉ của tình yêu dịu dàng của Thiên Chúa đối với nhân loại và thành các nhân chứng đặc biệt cho mầu nhiệm Hội thánh, Trinh nữ, Hiền thê và Hiền mẫu” 95 .
Một nhiệm vụ đặc biệt, cũng liên quan tới sự bền đỗ trong niềm vui, được uỷ thác cho những ai đang thực thi quyền bính, những người được mời gọi tìm kiếm nước trời, để những ai được uỷ thác cho họ đều “có thể luôn bền đỗ với niềm hân hoan trong mục đích thánh thiện của họ, hầu đạt được sự sống đời đời” 96 .
44. Giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô chú ý cách đặc biệt tới niềm vui. Evangelii gaudium, Amoris laetitia, Gaudete et exsultate, qua những lời giới thiệu của các văn kiện ấy, tất cả đều nhấn mạnh tới một đòi hỏi của tin mừng, là nền tảng trong đời sống các môn đệ: nhu cầu cần có niềm vui, mà đó là niềm vui của Tin mừng, niềm vui của tình yêu, kinh nghiệm hoan vui về sự hiệp thông với Đức Giêsu Kitô. Khi nói với những người thánh hiến, ngài không ngừng mời gọi họ làm chứng cho niềm vui: “Đây là vẻ đẹp của sự thánh hiến: đó là niềm vui, niềm vui…” 97 .
Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, niềm vui không phải là một thứ đồ trang sức vô ích, nhưng đúng ra là một sự thiết yếu và là nền tảng của cuộc sống con người. Trong các cuộc đấu tranh hằng ngày, mọi người bất kể nam, nữ đều có khuynh hướng đến với và ở lại trong niềm vui, với cả con người mình, niềm vui là một sức mạnh hướng đến sự bền đỗ. “Niềm vui phát sinh từ sự nhưng không của cuộc gặp gỡ đấy! […] Và niềm vui của việc gặp gỡ Ngài và lời mời gọi của Ngài không khi nào đưa tới chỗ khép mình lại nhưng bao giờ cũng mở mình ra; niềm vui ấy đưa tới chỗ phục vụ trong Hội thánh. Thánh Tôma nói: “bonum est diffusivum sui”. Sự thiện bao giờ cũng toả lan. Và niềm vui cũng lan toả. Đừng sợ bày tỏ niềm vui của việc đáp trả lời mời gọi của Chúa, của việc đáp lại chọn lựa tình yêu của Ngài và của việc làm chứng cho tin mừng trong việc phục vụ Hội thánh. Và niềm vui, niềm vui đích thật, bao giờ cũng dễ lây lan; niềm vui có tính lây nhiễm… nó đẩy người ta đi tới” 98 .
__________________
Chú thích:
72. Xem Công đồng Đại kết, Sắc lệnh về việc thích nghi và canh tân Đời Tu, Perfectae caritatis, (28. 10. 1965),15.
73. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô. Một Cam kết mới đối với đời sống thánh hiến trong thiên niên kỷ thứ ba, (19. 5. 2002).
74. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Potissinum institutioni. Các Chỉ dẫn về việc Đào tạo trong các Hội dòng, (02. 02. 1990).
75. Xem Ibid., 26.
76. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Đời sống Huynh đệ: Congregavit nos in unum Christi amor, (02. 02. 1994).
77. Ibid., 37.
78. Xem Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô: một cam kết mới trong đời sống thánh hiến vào thiên niên kỷ thứ ba, (19. 5. 2002), 18.
79. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị The Service of Authority and Obedience. Faciem tuam, Domine, requiram, (11. 5. 2008).
80. Xem Ibid., 30.
81. Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Presbiterorum ordinis, 16.
82. Xem Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị, Starting Afresh form Christ. A Renwed Commitment to Consecrated Life in the Third Millenium, (19. 5. 2002), 10.
83. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Potissium institutioni. Bản Chỉ Đạo về việc Đào tạo trong các Dòng tu (02. 02. 1990), 19.
84. Xem Ibid., 29.
85. Ibid., 57
86. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata, (25. 3. 1996), 37.
87. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Fraternity Life in Community, Congregavit nos in unum Christi amor, (02. 02. 1994), 28.
88. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen gentium, 43.
89. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Fraternal Life in Community: Congrevit nos unum Christi amor (02. 02. 1994), 28.
90. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị The Service of Authority and Obedience, Facem tuam, Domine, requiram, (11. 5. 2008), 7.
91. Ibid.
92. Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita consecrata, (25. 3. 1996), 45.
93. Ibid., 51
94. Ibid., 57, 58
95. Ibid.
96. Thánh bộ các tu hội đời sống thánh hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị The Service of Authority and Obedience. Facem tuam, Domine, requiram, (11. 5. 2008), 30.
97. Phanxicô, Cuộc gặp gỡ các chủng sinh và tập sinh, Vatican, (6. 7. 2013)
98. Phanxicô, Authentic and coherent, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói về vẻ đẹp của việc thánh hiến, [cuộc gặp gỡ các chủng sinh và tập sinh, Rôma 6. 7. 2013] trong: L’Osservatore Romano, Thứ hai – Thứ Ba 8 – 9. 7. 2013, CLIII (155), tr. 6.
============