Thư chung số 174 - 03/2025

Thứ sáu - 01/08/2025 09:10
Thư chung số 174/2025
Thư chung số 174 - 03/2025
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
      Thư số 174 / Năm XV
                   * * *                              
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 03/ 2025
-------------
Thông điệp DILEXIT NOS - CHƯƠNG 1

                                                                                          Phan Rang, ngày 20.02.2025
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
          Chúng ta đã bước vào tháng 3/2025, tháng kính Thánh Cả Giuse và sắp sửa vào Mùa Chay thánh. Xin anh chị em đặc biệt hướng về cha Thánh Giuse để cầu nguyện cách riêng cho Tu Hội, để trong Năm Thánh này Chúa ban cho anh chị em TH chúng ta được ơn canh tân đời sống thánh hiến, quảng đại hy sịnh và tích cực tham gia vào các sinh hoạt chung của TH, giúp cho TH ngày càng thêm phát triển theo Thánh ý Chúa.
Tháng này xin ace đọc & học hỏi chương 1 của Thông Điệp Dilexit nos, từ số 1- 16:

1. “NGƯỜI ĐÃ YÊU THƯƠNG CHÚNG TA”, Thánh Phaolô nói về Chúa Kitô (x. Rm 8,37), để giúp ta nhận ra rằng không gì có thể “tách chúng ta” ra khỏi tình yêu ấy (Rm 8,39). Thánh Phaolô có thể khẳng quyết chắc chắn điều này vì chính Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,9.12). Ngay cả bây giờ, Chúa vẫn nói với chúng ta: “Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15,15). Trái tim rộng mở của Người đã đi trước và chờ đợi chúng ta, một cách vô điều kiện, chỉ muốn trao cho ta tình yêu và tình bạn của Người. Vì “Người đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1Ga 4,10). Nhờ Chúa Giêsu, “chúng ta đã biết và tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1Ga 4,16).

CHƯƠNG MỘT - TẦM QUAN TRỌNG CỦA TRÁI TIM

2. Biểu tượng trái tim thường được dùng để diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Một số người chất vấn liệu biểu tượng này có vẫn còn ý nghĩa hôm nay hay không. Tuy nhiên, sống trong một thời đại hời hợt, hối hả từ việc này sang việc khác mà không thực sự biết tại sao, rồi rốt cuộc trở thành những người tiêu thụ không biết chán và những nô lệ cho các cơ chế của một thị trường không quan tâm gì đến ý nghĩa sâu xa hơn của đời sống mình, thì tất cả chúng ta cần khám phá lại tầm quan trọng của trái tim.[1]

CHÚNG TA MUỐN NÓI GÌ KHI NÓI “TRÁI TIM”?
3. Trong tiếng Hy lạp cổ, từ kardíachỉ về phần sâu thẳm nhất của con người, động vật và thực vật. Đối với Homer, nó không chỉ nói về trung tâm của cơ thể, mà còn nói về tâm hồn và tinh thần người ta. Trong Iliad, tư tưởng và cảm xúc xuất phát từ trái tim và gắn kết chặt chẽ với nhau.[2] Trái tim được coi là nơi của ước muốn và là chỗ mà các quyết định quan trọng hình thành.[3] Trong Plato, trái tim luôn đảm trách việc thống nhất các khía cạnh lý trí và bản năng của con người, vì các xung lực của các năng lực thượng đẳng lẫn các đam mê được cho là đi qua các mạch máu hội tụ nơi trái tim.[4] Vì thế từ thời xa xưa, người ta đã chân nhận sự kiện rằng con người không chỉ là tổng hợp các năng khiếu khác nhau, mà còn là sự hợp nhất của cơ thể và tâm hồn, với một trung tâm điều phối cung cấp phông nền ý nghĩa và chiều hướng cho tất cả những gì mà con người kinh nghiệm.

4. Kinh Thánh nói với ta rằng “Lời Chúa sống động và hữu hiệu… có khả năng xét đoán các tư tưởng và ý định của trái tim” (Dt 4,12). Như vậy, Kinh Thánh nói về trái tim như một cốt lõi nằm ẩn dưới mọi vẻ bề ngoài, ngay cả dưới những suy nghĩ hời hợt có thể làm lung lạc chúng ta. Các môn đệ Emmau, trên hành trình huyền nhiệm của họ, được đồng hành bởi Chúa Kitô phục sinh, đã kinh nghiệm một thời khắc ưu phiền, hoang mang, chán nản và thất vọng. Tuy nhiên, vượt quá và bất chấp tình trạng này, một điều gì đó đã xảy ra sâu thẳm trong lòng họ: “Trái tim chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi Người nói chuyện với chúng ta trên đường sao?” (Lc 24,32).

5. Trái tim cũng định vị sự chân thành, trong đó không có chỗ cho sự lừa dối và ngụy trang. Nó thường cho thấy những ý hướng thực sự của chúng ta, những gì ta thực sự nghĩ, tin và mong muốn, những “bí mật” mà ta không tiết lộ với ai – nói tóm lại, nó cho thấy sự thật trần trụi về chính chúng ta. Đó là phần nơi chúng ta vốn không phải là ngoại hình hay ảo ảnh, mà là phần chân thực, hiện thực, hoàn toàn là “con người thật của ta”. Vì thế nên Samson, người đã giấu Delilah bí mật về sức mạnh của mình, đã bị cô ấy hỏi “Làm sao chàng có thể nói ‘anh yêu em’, khi mà trái tim chàng không ở gần em?” (Tl 16,15). Chỉ khi Samson mở lòng mình với cô, Delilah mới nhận ra “rằng chàng đã kể cho mình nghe tất cả bí mật của chàng” (Tl 16,18).

6. Thực tại bên trong này của mỗi người thường bị che lấp bởi rất nhiều “tán lá”, làm ta không chỉ khó hiểu chính mình, mà còn khó hiểu hơn về người khác: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?” (Gr 17,9). Vì thế, ta có thể hiểu lời khuyên của sách Châm ngôn: “Hãy gìn giữ trái tim con cho thật kỹ, vì từ nơi đó mà sự sống phát sinh; lời nói lọc lừa con hãy đẩy cho xa” (4,23-24). Sự chăm chút chỉ những thứ bề ngoài, sự không trung thực và lừa dối sẽ làm tổn hại và hư hỏng trái tim con người. Bất chấp mọi cố gắng của ta để giả hình, trái tim chúng ta sẽ là thẩm phán cuối cùng, không phải về những gì ta thể hiện hay che giấu đối với người khác, mà là về con người thật của mình. Đó là cơ sở cho bất cứ kế hoạch nào nhằm sống lành mạnh; người ta không thể nhận được gì đáng giá ở ngoài trái tim. Những vẻ giả tạo bề ngoài và những điều không trung thực cuối cùng sẽ để lại cho ta bàn tay trắng.

7. Để minh họa điều này, tôi muốn nhắc lại một câu chuyện mà mình từng kể. “Dịp lễ hội hóa trang hồi chúng tôi còn nhỏ, bà tôi làm món bánh bột nhào bằng những lát bột rất mỏng. Khi bà thả các lát bột vào chảo dầu, chúng sẽ nở to ra, nhưng sau đó, khi chúng tôi cắn vào, hóa ra bên trong chúng trống rỗng. Trong thổ ngữ của chúng tôi, những chiếc bánh này được gọi là ‘bánh phồng’… Bà tôi giải thích: ‘Giống như những lời dối trá phóng đại, chúng trông to, nhưng bên trong trống rỗng; chúng giả tạo, không thật'”.[5]

8. Thay vì theo đuổi những thỏa mãn hời hợt và thay vì làm bộ giúp ích người khác, tốt hơn chúng ta nên suy nghĩ về những câu hỏi thực sự quan trọng trong đời. Tôi thực sự là ai? Tôi đang tìm kiếm gì? Tôi muốn định hướng thế nào cho đời mình, cho những quyết định và những hành động của mình? Tại sao tôi có mặt trên đời này, và nhằm mục đích gì? Tôi muốn nhìn thấy cuộc sống mình thế nào khi đời mình kết thúc? Đâu là ý nghĩa mà tôi muốn trao cho tất cả những kinh nghiệm của mình? Tôi muốn trở thành ai đối với người khác? Tôi là ai đối với Thiên Chúa? Tất cả những câu hỏi này đưa dẫn chúng ta trở lại với trái tim mình.

TRỞ VỀ VỚI TRÁI TIM

9. Trong cái thế giới “lỏng lẻo” này của mình, chúng ta một lần nữa cần bắt đầu nói về trái tim, và cần suy nghĩ về chính nơi mà mọi người, thuộc mọi tầng lớp và hoàn cảnh, tạo ra một tổng hợp trong đó họ gặp thấy căn nguyên của những sức mạnh, những niềm xác tín, những sự say mê và những quyết định của mình. Tuy nhiên, chúng ta thấy mình bị nhận chìm trong xã hội của những người hăm hở tiêu thụ, ngày này qua ngày khác bị chi phối bởi nhịp sống hối hả và bị dội bom công nghệ, thiếu sự kiên nhẫn cần thiết để dấn mình vào những tiến trình mà bản chất của đời sống nội tâm đòi hỏi. Trong xã hội ngày nay, con người “có nguy cơ đánh mất trung tâm của mình, trung tâm của chính bản ngã mình”.[6] “Thật vậy, những con người nam nữ của thời đại chúng ta thường thấy mình bị bấn loạn và xâu xé, hầu như bị tước mất một nguyên lý bên trong vốn có thể tạo lập sự thống nhất và hòa hợp trong cuộc sống và hành động của họ. Đáng buồn là các mô hình ứng xử lan rộng hiện nay đang quá đẩy mạnh chiều kích lý tính-công nghệ của chúng ta, hay ngược lại, quá đẩy mạnh chiều kích bản năng của chúng ta”.[7] Không còn chỗ nào dành cho trái tim.

10. Những vấn đề đặt ra bởi xã hội lỏng lẻo ngày nay đang được thảo luận nhiều, nhưng sự coi thường cái cốt lõi thâm sâu của nhân tính chúng ta – là trái tim – thì có một lịch sử lâu đời hơn nhiều. Chúng ta vốn thấy nó có mặt trong chủ nghĩa duy lý Hy lạp và tiền Kitô giáo, trong chủ nghĩa duy tâm hậu Kitô giáo và trong chủ nghĩa duy vật dưới nhiều dáng dấp khác nhau. Trái tim đã bị bỏ qua trong nhân học, và truyền thống triết học đồ sộ coi nó là một khái niệm xa lạ, trong khi ưa chuộng các ý niệm khác như lý trí, ý chí hay tự do. Bản thân ý nghĩa của hạn từ này thì mơ hồ và khó định vị trong kinh nghiệm con người của chúng ta. Có lẽ điều này là do sự khó khăn trong việc xem nó như một “ý tưởng rõ ràng và phân biệt”, hoặc vì nó gắn với vấn đề tự nhận thức, trong đó phần sâu xa nhất của chúng ta cũng là phần ít được hiểu biết nhất. Ngay cả việc gặp gỡ người khác cũng không nhất thiết được coi là một cách để gặp gỡ chính mình, trong mức độ các khuôn mẫu suy nghĩ của chúng ta bị chi phối bởi một chủ nghĩa cá nhân không lành mạnh. Nhiều người cảm thấy an toàn hơn khi xây dựng hệ thống tư tưởng của mình trong phạm vi dễ kiểm soát hơn của trí năng và ý chí. Việc không dành chỗ cho trái tim, phân biệt với các sức mạnh và các đam mê của con người chúng ta khi được nhìn tách rời nhau, đã gây cản trở việc ý niệm về một trung tâm của cá nhân, trong đó rốt cuộc tình yêu là thực tại duy nhất có thể thống nhất tất cả những thực tại khác.

11. Nếu coi thường trái tim, chúng ta cũng coi thường ý nghĩa của việc nói từ trái tim, hành động bằng trái tim, vun đắp và chữa lành trái tim. Nếu chúng ta không trân trọng tính chuyên biệt của trái tim, chúng ta sẽ bỏ hụt những thông điệp mà duy chỉ trí óc thì không thể truyền đạt; chúng ta sẽ bỏ lỡ sự phong phú của những cuộc gặp gỡ với người khác; chúng ta sẽ bỏ lỡ thi ca. Chúng ta cũng đánh mất dấu vết của lịch sử và quá khứ của chính mình, vì lịch sử con người thực của chúng ta được xây dựng bằng trái tim. Vào lúc cuối đời, chỉ điều đó mới quan trọng.


12. Vì thế phải nói rằng chúng ta có một trái tim, một trái tim cùng tồn tại với những trái tim khác giúp làm cho nó thành một “Bạn”. Vì không thể khai triển dông dài chủ đề này, chúng ta sẽ lấy nhân vật Nikolai Stavrogin từ một tiểu thuyết của Dostoevsky.[8] Romano Guardini lập luận rằng Stavrogin chính là hiện thân của sự dữ, bởi vì đặc điểm chính của ông ta là sự vô tâm: “Stavrogin không có trái tim, do đó đầu óc ông ta lạnh lùng và trống rỗng, cơ thể ông ta chìm ngập trong sự ươn lười và nhục cảm thú tính. Không có trái tim, ông ta không thể thân thiết với ai, và không ai có thể thực sự thân thiết với ông. Vì chỉ trái tim mới tạo nên sự mật thiết, sự gần gũi thực sự giữa hai người. Chỉ trái tim mới có thể trao và nhận lòng hiếu khách. Sự mật thiết là hoạt động riêng và là lãnh vực của trái tim. Stavrogin luôn vô cùng xa cách, ngay cả xa cách chính mình, bởi vì người ta chỉ có thể đi vào bên trong chính mình bằng trái tim, không phải bằng trí óc. Với khả năng của mình, người ta không thể đi vào nội tâm mình bằng trí óc. Vì thế, nếu trái tim không sống động, người ta vẫn xa lạ với chính mình”.[9]

13. Mọi hành động của chúng ta phải được đặt dưới “quy tắc chính trị” của trái tim. Theo cách này, sự hung hăng và những dục vọng ám ảnh của chúng ta sẽ lắng dịu trong điều tốt đẹp hơn mà trái tim mời gọi, và trong sức mạnh của trái tim đề kháng sự dữ. Trí năng và ý chí được đặt phục vụ cho điều tốt đẹp hơn bằng cách cảm nhận và thưởng thức những sự thật, thay vì tìm cách làm chủ chúng như khoa học có xu hướng làm. Ý chí sẽ khao khát điều tốt đẹp hơn mà trái tim nhận ra, trong khi chính trí tưởng tượng và các cảm xúc được dẫn dắt bởi nhịp đập của trái tim.

14. Do đó, có thể nói rằng tôi là trái tim của tôi, vì trái tim của tôi là cái làm cho tôi khác biệt, định hình căn tính tâm linh của tôi và đưa tôi vào hiệp thông với những người khác. Các thuật toán vận hành trong thế giới kỹ thuật số cho thấy rằng các tư tưởng và ý chí của chúng ta “đồng nhất” hơn nhiều so với chúng ta từng nghĩ trước đây. Chúng dễ dàng được dự đoán và do đó có thể bị thao túng. Nhưng trái tim thì không như vậy.


15. Từ “trái tim” chứng tỏ giá trị của nó đối với triết học và thần học trong các cố gắng nhằm đạt được một tổng hợp toàn diện. Ý nghĩa của nó cũng không thể được thấu triệt bởi sinh học, tâm lý học, nhân chủng học hay bất cứ khoa học nào khác. Đó là một trong những từ nguyên thủy “mô tả những thực tại thuộc về con người đúng theo mức độ con người là một tổng thể (như một con người tâm-thân)”.[10] Theo đó thì các nhà sinh học không hề “thực tiễn” hơn khi họ thảo luận về trái tim, vì họ chỉ nhìn thấy một khía cạnh của nó; cái tổng thể không hề ít thực hơn, mà thậm chí còn thực hơn. Ngôn ngữ trừu tượng cũng không thể đạt được cùng một ý nghĩa cụ thể và tích hợp ấy. Từ “trái tim” gợi lên cốt lõi sâu thẳm nhất của con người chúng ta, và do đó nó cho phép chúng ta nhận hiểu chính mình trong tính toàn nhập của mình chứ không chỉ dưới một khía cạnh tách biệt.

16. Năng lực độc đáo này của trái tim cũng giúp chúng ta hiểu tại sao – khi chúng ta nắm bắt một thực tại bằng trái tim – thì ta sẽ hiểu biết nó tốt hơn và đầy đủ hơn. Điều này tất yếu dẫn chúng ta đến tình yêu là điều vốn thuộc năng lực của trái tim, vì “cốt lõi thâm sâu nhất của thực tại là tình yêu”.[11] Đối với Heidegger, như được một nhà tư tưởng đương thời diễn giải, triết học không bắt đầu bằng một ý niệm đơn giản hay sự chắc chắn, mà bằng một cú sốc: “Tư tưởng phải được khơi dậy trước khi nó bắt đầu làm việc với các ý niệm, hoặc trong khi nó làm việc với chúng. Nếu không có cảm xúc sâu sắc, tư duy không thể bắt đầu. Do đó, hình ảnh tâm thần đầu tiên sẽ là nổi da gà. Điều đầu tiên kích động người ta suy nghĩ và chất vấn chính là cảm xúc sâu sắc. Triết học luôn diễn ra trong một trạng thái hưng phấn cơ bản (Stimmung)”.[12] Đó là lúc trái tim nhập cuộc, vì nó “chứa đựng các trạng thái tâm cảm và nó làm việc trong tư cách một ‘người giữ các trạng thái tâm cảm’. ‘Trái tim’ lắng nghe theo một cách phi ẩn dụ ‘tiếng nói lặng thầm’ của hữu thể, cho phép chính nó được tôi luyện và được xác định bởi tiếng nói ấy”.[13]
_____________
[1] Nhiều suy tư trong chương đầu tiên này nhận cảm hứng từ các tác phẩm chưa xuất bản của Cố linh mục Diego Fares, S.J. Xin Chúa ban cho ngài sự an nghỉ vĩnh hằng.
[2] x. HOMER, Iliad, XXI, 441.
[3] x. Iliad, X, 244.
[4] x. PLATO, Timaeus, 65 c-d; 70.
[5] Bài giảng trong Thánh lễ buổi sáng tại Domus Sanctae Marthae, ngày 14 tháng 10 năm 2016: L’Osservatore Romano, ngày 15 tháng 10 năm 2016, tr. 8.
[6] THÁNH GIOAN PHAOLÔ II, Kinh Truyền Tin, ngày 2 tháng 7 năm 2000: L’Osservatore Romano, ngày 3-4 tháng 7 năm 2000, tr. 4.
[7] ID., Giáo lý, ngày 8 tháng 6 năm 1994: L’Osservatore Romano, ngày 9 tháng 6 năm 1994, tr. 5.
[8] Những ác quỷ (1873).
[9] ROMANO GUARDINI, Religiöse Gestalten ở Dostojewskijs Werk, Mainz/Paderborn, 1989, trang 236tt.
[10] KARL RAHNER, “Một số luận đề cho một Thần học về Tôn sùng Thánh Tâm”, trong Nghiên cứu Thần học, tập. III, Baltimore-London, 1967, tr. 332.
[11] Ibid., tr. 333.
[12] BYUNG-CHUL HAN, Heideggers Herz. Zum Begriff der Stimmung bei Martin Heidegger, München, 1996, tr. 39.
[13]  Ibid., tr. 60; x.tr. 176.

 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây