Cha Charles de Foucauld, Nhà Truyền Giáo (1)

Thứ năm - 07/05/2020 11:11
Cha Charles de Foucauld, Nhà Truyền Giáo (1)
CHA CHARLES DE FOUCAULD
“ ĐƯỢC DÀNH RIÊNG ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG ” (1)
 
     
Phong Chân Phước cho Cha de Foucauld, là dịp để Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI làm mãn nguyện những ước ao của viện phụ Nantes, vị sáng lập và là bề trên của chúng ta, đã từng tuyên bố vào lúc kết thúc hội nghị khoáng đại, tại phòng Tương Tế, vào ngày thứ bảy, 13 tháng 11 năm 1976 :

     “Cha Foucauld được dành riêng cho tương lai. Việc của chúng ta là phải bảo đảm nguyên vẹn, làm hồi sinh và thực hiện sứ điệp ấy cho đến khi có được chiến thắng cũng như hoà bình của Hội Thánh và của nước Pháp, cho đến khi có nền văn minh cũng như sự hoán cải của Đế Quốc thuộc địa chúng ta, mà có thể nói là đã được Cha nhìn thấy trước và đã đổ máu mình ra vì những ước nguyện đó. Như thánh nữ Jeanne d’Arc, như thánh Louis hấp hối tại Tunis, Cha là người con của nước Pháp cũng như của Hội Thánh. Những vinh dự của việc phong thánh và vinh quang của vùng Bernin sẽ dành cho những thời đại khác, thời của Vị Đại Giáo Hoàng và vị Đại Vương mà biết bao lời ngôn sứ loan báo trong dân tộc Pháp bé nhỏ tự ngàn xưa. (…)

     “Điều mà vị ẩn sĩ ở Hoggar để lại cho chúng ta như di chúc tinh thần và thế tục, chính là tình yêu được gặp thấy lại từ trật tự già cỗi lâu đời mà chúng ta phải gắn kết vào đó những sai lệch của thế giới hiện đại và những nguyên tắc cách mạng của nó. Không những vì sự an toàn, nền hoà bình, niềm hạnh phúc của chúng ta, mà còn để mở rộng ân huệ khôn sánh ấy ra cho anh em chúng ta, những người Hồi giáo và ngoại giáo tại các vùng thuộc địa của chúng ta, đến cả những người chịu thua thiệt, bị bỏ rơi nhất do những người bất trung. Nếu khước từ di sản của chính mình, thì làm sao chúng ta có thể mang Đức Kitô đến cho thế gian được ? Đó là cuộc đánh cược mà Hội Thánh đã rồ dại lao mình vào trong thời đại chúng ta, nhưng chẳng có kết quả nào ngoài sự sụp đổ của nền chính trị lâu đời của nước Pháp, vốn mang lại nền văn minh cho nhân loại toàn cầu, đang phải sớm kéo lê sự đổ nát của chính mình.

     Không bao giờ lùi bước !” Foucauld kêu gọi chúng ta chiến đấu, nhưng ơn gọi mới của người anh em đại đồng mang lại cho chúng ta ý nghĩa và chiều kích của lời kêu gọi ấy : đó là một cuộc chiến đấu Kitô giáo, một Cuộc Thánh Chiến để mọi dân tộc bước vào di sản đầy hồng phúc của Tình Yêu Chúa Giêsu.” (CRC số 112, tháng 12/1976, tr. 22) 

I/. CHỈ MỘT MÌNH CHÚA GIÊSU

     Ơn ban đặc biệt và thần bí dành riêng cho Cha Foucauld mang lại là hoàn toàn bắt chước Chúa Giêsu, được trải nghiệm “bằng cách bước theo dấu vết “những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu”, như ĐTC Bênêđictô XVI phát biểu, phải làm thế nào để khi ta “nói về Người”, tức là ta “gặp lại Người”. Cuộc sống của Cha thâu tóm một cách lạ lùng, trong lịch sử Hội Thánh, những giai đoạn lớn của cuộc đời Chúa chúng ta, và từ đó trình bày cho thấy một minh hoạ tuyệt diệu về Tin Mừng :

     Cha nói : “Sự bắt chước không thể tách rời khỏi tình yêuAi yêu mến thì muốn bắt chước : đó là bí quyết sống của tôi. Tôi đã đánh mất con tim của mình vì Đức Giêsu Nazareth bị đóng đinh cách đây 1900 năm, và tôi sống cuộc sống của mình để ra sức bắt chước Người, dẫu mình yếu đuối.”

     Trong khi muốn “thét lớn Tin Mừng” suốt cả đời, Cha Foucauld thậm chí đã không thấy hồng ân ấy được ban cho mình ra sao. Cha không soạn sẵn một chương trình theo Tin Mừng để, từng bước, đi hết giai đoạn này sang giai đoạn khác. Không ! Cha chỉ được thấm nhuần bởi những gợi hứng tùy thời tùy lúc hướng dẫn những quyết định của Cha. Do đó những giai đoạn sống của Cha kế tiếp nhau theo một trật tự mà chính Cha cũng không nhận ra, nhưng, một cách đáng kinh ngạc, chúng ta gặp thấy đó như một hành trình Tin Mừng đúng nghĩa, và vì thế, như cuộc hành trình thần bí lý tưởng ! 

     CỰU ƯỚC

     Như  Maria Mađalêna, cũng như bao người khác, Charles de Foucauld đã biết bi kịch về đứa con hoang đàng. Cha đã trải qua kinh nghiệm của Israel, dân được Chúa chọn, được ưu đãi, rồi bất trung, bị thất sủng và bất hạnh trong tội ác. Ở giai đoạn này, Cha vẫn chưa giống Đức Giêsu, nhưng giống Adam, Abraham, David, mà Cựu Ước mở ra cho chúng ta thấy cuộc hành trình được gợi hứng.

     Nhiều vị thánh lớn, nhờ hồng ân, đã thấy bản thân mình trải qua một cuộc phiêu lưu rất ác liệt : Đức Trinh Nữ Maria, thánh Gioan, thánh Bênađô, thánh Gioan Thánh Giá, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Những vị khác, trái lại, hoàn toàn có một trải nghiệm cay đắng khủng khiếp về sự bất trung và, theo cách của các ngài, cho thấy được lòng thương xót và tình yêu vô bờ bến, đầy khoan dung của Đấng Cứu Độ dành cho nhân loại chúng ta : thánh nữ Mađalêna, người nữ tội nhân mà Cha Foucauld thiết tha sùng mộ, có thể cả thánh Phaolô, và dĩ nhiên cả thánh Augustin nữa…

     “Tôi đã sống mười bảy năm một cách hết sức ích kỷ, hoàn toàn vô đạo, chỉ muốn điều xấu xa; tôi đã  điên loạn.”

     Người ta như thể nghe thấy những lời quở trách kịch liệt của các ngôn sứ chống lại dân Israel và sự bất trung của họ đã trở nên nặng nề do sự mù quáng sâu sắc của kẻ quay lưng lại với Thiên Chúa :

     “Khi sống tồi tệ hơn, em cứ đinh ninh việc đó dứt khoát là đúng mực và cuộc sống của em là hoàn hảo.” (viết cho bà Marie de Bondy, ngày 04.12.1895).

     Sự tương đồng thật ấn tượng với kinh nghiệm của Israel, nổi loạn và  bất mãn, ngày một suy đồi, cuối cùng là bất hạnh : “Con làm điều xấu xa, nhưng lại không tán thành, cũng chẳng thích nó…Ngài làm cho con cảm thấy một sự trống rỗng đau đớn, một nỗi buồn phiền mà mãi cho đến lúc bấy giờ con mới cảm nghiệm được.”

     Thời gian thử thách đến. Cuộc đời Charles de Foucauld rõ ràng là một thu ngắn toàn bộ lịch sử Israel ! Nhiều biến cố quan phòng dẫn đến việc thanh luyện tâm hồn, giải phóng khỏi tình trạng nô lệ thế gian và xác thịt, và cuối cùng là đến với việc tìm kiếm Thiên Chúa. Giai đoạn này tương ứng với giai đoạn trong Cựu Ước diễn ra từ Cuộc Lưu Đày cho đến thời Đức Kitô. Thiên Chúa chờ đợi kẻ bất trung quay về : “Xin đừng lay thức, xin đừng thức tỉnh nàng trước khi nàng muốn thức dậy ! (Dc.2,7)

     Điệp khúc ấy trong sách Diệu Ca cho thấy Israel chậm hoán cải, bất hạnh, bị hạ bệ, nhục nhã, bị tước hết mọi thứ :

     “Tôi bắt đầu đi nhà thờ, mà chẳng tin tưởng gì, chỉ nhận ra mình có mặt ở đấy và trải qua hàng giờ để lập đi lặp lại lời cầu nguyện kỳ dị này : “Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, xin hãy làm cho con nhận biết Chúa.”

     Niềm hy vọng thức tỉnh ấy, tiềm tàng nơi những người Israel đáng thương, được các Thánh Vịnh thốt lên đầy van vỉ từ lúc rời khỏi chốn lưu đày và thời đại Ba tư, đã được thực hiện dưới sự thôi thúc bí ẩn của tình yêu, và sẽ sớm xuất hiện đức tin, đầy đủ và hoàn hảo, nghĩa là có thêm cả đức cậy và đức mến : nó đã đâm chồi trong những nơi sâu thẳm của linh hồn. Bông hoa ấy sẽ bất ngờ xuất hiện dưới tia nắng mặt trời hồng ân, chứng minh cho lời thánh Augustinô : Con sẽ chẳng tìm kiếm Ta nếu con chưa từng gặp Ta.”

     Charles de Foucauld đã gặp được vị Thiên Chúa mà Anh tìm kiếm thông qua tình yêu hết sức tinh khôi và cao cả, rất chăm chút ân cần và đầy lòng trắc ẩn, của người chị họ là bà Marie de Bondy, của bà dì Moitessier, dẫn Anh đến với Cha Huvelin. Thế là, giống như một cơn băng tan : một cách đột ngột, qua bàn tay linh mục, ngày 29 hoặc 30.10.1886, Charles de Foucauld xưng tội và rước lễ. Anh đã 28 tuổi, tuổi Đức Giêsu bước xuống sông Giođan để nhận phép rửa từ tay Gioan. Với Anh, đó là một cuộc khai sinh, như một nhập thể mới. Cùng với Chúa Giêsu, Anh thưa cùng Chúa Cha : Ecce venio, ut faciam voluntatem tuam, “Này con xin đến để thực thi ý Chúa.”

     Một sự sống mới, khởi nguồn từ Thiên Chúa, đang bắt đầu. 

VÂNG THEO LỜI GIÁO HUẤN

     Đừng tưởng rằng hồng ân, được ban cho Charles de Foucauld từ lúc Anh chịu phép Rửa và tìm gặp lại được sau khi Anh hoán cải, sẽ có thể giải phóng Anh khỏi mọi qui luật luân lý, khỏi mọi hình thức khổ hạnh của đời sống, khỏi phải vâng phục. Chúa đã khẳng định Người không đến để bãi bỏ một chấm một phết của Lề Luật, nhưng trái lại, để hoàn thiện, nghĩa là đưa ra một nguyên tắc mới cho việc vâng phục Lề Luật. Chính vì thế mà Hài Đồng Giêsu “được sinh ra bởi một Người Nữ, sinh ra dưới Lề Luật”, như thánh Phaolô nói, được dạy Luật Môsê, được kiên định trong thực hành bằng tình yêu, lòng tôn kính và sự vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria.

     ĐHY Joseph Ratzinger viết: “Người đã làm một trẻ nhỏLàm trẻ nhỏ nghĩa là gì ? Trước hết, nghĩa là : tuân phục, luỵ thuộc, thiếu thốn, phó thác vào tay người khác. Là người con, Chúa Giêsu không chỉ đến từ Thiên Chúa, mà còn đến từ những con người khác. Người được sinh ra trong cung lòng một người nữ mà từ đó Người nhận lấy xác thịt và máu huyết, nhận lấy những nhịp đập của trái tim, những hành vi cử chỉ và lời ăn tiếng nói. Người đã nhận sự sống từ sự sống của một con người khác.

     “Rút ra từ các bản thể khác những gì thuộc riêng họ, thì không chỉ hoàn toàn về mặt sinh học. Điều này có nghĩa Chúa Giêsu còn nhận lấy những hình thức tư duy và những quan niệm của những kẻ đã hiện hữu trước Người và cuối cùng là Mẹ Người, và linh hồn con người của Người đã thấm nhuần. Điều đó có nghĩa là, với việc kế thừa từ các tổ phụ của mình, Người đã đi lại toàn bộ con đường đã được đi qua cho đến lúc bấy giờ và, từ Đức Maria quay lên lại cho đến Abraham và cuối cùng là Adam. Người đã vác lấy gánh nặng của lịch sử này, đã sống và chịu đựng nó để biến đổi tất cả mọi từ khước, mọi chệch hướng thành một lời thưa vâng trọn nghĩa : “Vì Ðức Kitô Giêsu, Con Thiên Chúa, đã không vừa là "có" vừa là "không", nhưng nơi Người chỉ toàn là "có” (2Cr. 1,19)” (Joseph Ratzinger, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Fayard, 1977, tr. 70-71)

     Georges de Nantes không dạy chúng ta điều gì khác hơn trong cuộc tĩnh tâm cho cộng đoàn vào mùa thu 1976 :

     “Điều cốt thiết trong đức tin công giáo của chúng ta, trước hết, Chúa Giêsu là một người con chịu luỵ, vâng phục, lặng lẽ ở Nazareth. Người cũng đã thực sự bước vào “truyền thống” của con người và tôn giáo hết sức thánh thiện của nhân loại, mà ở đó, cuối cùng, đến một ngày, Người sẽ biến đổi tất cả. Cũng một cách ấy, Charles de Foucauld cần phải học tập và chịu luỵ những con người của Hội Thánh mà chắc chắn sau này Anh sẽ vượt lên, nhưng do chính lòng hăng say ban đầu, do ơn gọi độc đáo của Anh.

     “Sự chịu luỵ ấy sẽ minh chứng ơn gọi của Anh không đi ngược lại, mà là đi xa hơn. Cha Foucauld không phải là một nhà cách mạng, không làm nhiều hơn Đức Kitô. Ơn gọi của Anh không có gì đi ngược lại luật dòng Xitô, như đôi khi người ta có nói, mà xuyên qua luật ấy, và đi xa hơn; và các đan sĩ Xitô là những người đầu tiên nói lên điều đó một cách bình thản bởi vì chính họ biết rõ tất cả sự quý chuộng mà Anh dành cho Luật ấy.”

     Charles de Foucauld sau khi được hoán cải, trở nên giống như Hài Nhi Giêsu, chỉ nghĩ đến việc vâng phục :

     “Ai cũng biết thành quả đầu tiên của tình yêu chính là sự bắt chước; vì thế, chỉ còn việc vào Dòng nơi đó tôi sẽ tìm ra cách bắt chước Chúa Giêsu chính xác nhất.” (thư gửi cho ông Henri de Castries, ngày14.8.1901).

     Anh bắt đầu bằng việc chấp nhận hy sinh lớn nhất có thể, khi ra đi để sống và chết thật xa gia đình. Ngày 15.01.1890, ở tuổi ba mươi hai, Anh lên đường và ngày hôm sau Anh đến đan viện Đức Bà Xuống Tuyết. Mười ngày sau, Anh nhận tu phục và tên dòng là tên của vị sáng lập thứ hai Dòng Xitô là Albéric. Charles de Foucauld trở thành tu sĩ Marie-Albéric. Sau đó Anh đến Syrie, nơi mà các đan sĩ Dòng Trappe Đức Bà Xuống Tuyết, vào năm 1882, đã xây dựng một đan viện mới để trú ẩn trong trường hợp các luật lệ gian hùng buộc họ phải rời nước Pháp. Anh ở lại đấy cho đến 1897, trong sự vâng phục các bề trên, tuân thủ Luật Dòng hết sức khắc khổ và hoàn thiện của các đan sĩ Xitô.

     Anh viết:  “Hãy chia vui với emvì cuộc sống mới này, cuộc sống hoàn toàn hy sinh để luôn đồng hành với Đấng mà cuộc sống dưới thế này chỉ là những hy sinh.” (thư gửi cho bà Marie de Bondy, ngày 20.09.1890).

     Người ta có thể nói về Anh như  nói về Con Trẻ Giêsu : “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc. 2,40)

     “Em liên lỉ, tuyệt đối liên lỉ, ở với Người và với những người em yêu mến. Công việc chân tay không cản trở em suy niệm, đó là một niềm an ủi nhờ được nên giống Chúa chúng ta, và suy niệm không ngừng.”

     Anh đọc các Thánh Vịnh, học hỏi giáo lý, đọc hạnh thánh Bernard và Kinh Thánh. Cùng một cách như “Đức Maria ghi nhớ tất cả những kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc. 2,19), đến độ các bề trên của thầy Marie-Albéric tự hỏi thầy sẽ trở nên thế nào : có thể là một thánh Bernard mới chăng ? “Thầy ấy đơn sơ đến hoàn hảo và luôn đặt mình vào chỗ rốt hết. Anh rèn luyện mình trong mọi việc, ngay cả để làm cho bị lãng quên, thậm chí có đi ngang qua cũng chẳng để ai nhìn thấy”, René Bazin viết như vậy sau khi nhận được lời tâm sự của một đan sĩ lúc ấy : Thầy Albéric không bao giờ từ chối ai một việc gì; thầy ấy tuyệt vời như một Phanxicô Khó Khăn thứ hai !

     Cha viện trưởng đan viện tại Akbès nói : Với chúng tôi, Thầy Albéric giống như một thiên thần đang ở giữa chúng tôi.” 

     NHỮNG ĐAU ĐỚN CỦA LẦN TÁI SINH

     Chúa Giêsu vĩ đại hơn Thánh Giuse và Mẹ Maria. Sẽ đến một ngày Người giải phóng mình khỏi lề luật của các ngài. Hay đúng hơn : Người vẫn vâng phục các ngài, nhưng trong một ánh sáng cao cả hơn. Đó là lời giải thích cho việc Chúa Giêsu trốn ở lại Giêrusalem lúc lên mười hai tuổi, và giải thích cho mạc khải đầy đau đớn mà Người phải tỏ ra với Cha Mẹ thánh thiện của Người, về lễ thánh hiến cao cả nhất dâng lên Chúa Cha vì Tin Mừng mới : “Cha mẹ không biết là con phải ở nhà Cha con sao ?”

     Đó là biến cố Tin Mừng được đưa ra để giải thích câu chuyện về những buổi suy niệm lâu dài, cởi mở với các bề trên, tiến trình lặp đi lặp lại, những học hỏi, những bức thư đầy đau đớn của thầy Albéric gửi cho cha Huvelin khi đến lúc phải dấn thân bằng những lời khấn trọng thể trong Dòng Xitô.

     Hoàn toàn phó thác, trong một hành vi anh hùng vâng phục quyết định của Cha Tổng Quyền, sau khi đã cởi mở hết tâm can với ngài, Anh được giải lời khấn tạm vào ngày 23.01.1897, và có thể đáp lại ơn gọi của riêng mình bằng cách rời Dòng Trappe.

     Anh cẩn thận ghi lại hôm đó là ngày lễ đính hôn của Thánh Giuse và Đức Trinh Nữ Maria, hôm trước ngày lễ Thánh Gia. 

 SỰ PHONG PHÚ CỦA NAZARETH     
 
Charles de Foucauld tốt lành và khiêm tốn được tự do đến với Giêsu, không dừng lại vì bất cứ một luật lệ nào ngoài luật Tin Mừng. Anh được tự do tìm kiếm cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu, và như Anh vẫn thường nói, là được ở sát bên Người, bên chân Thánh Cả Giuse và Đức Thánh Trinh Nữ. Bằng sự hăng hái của người mới hoán cải, Anh lao mình vào ơn gọi mới bằng tình yêu, thờ phượng, thinh lặng, bằng công việc tay chân, sự hèn mọn. Vậy vẫn chưa đủ; Anh sẽ luôn đi xa hơn trong việc tôn thờ sự hiện diện của Chúa Chí Ái.

     Lúc đó anh được hoàn toàn tự do biểu lộ lòng sùng mộ đối với Thánh Tâm, bày tỏ tâm tình, khỏa lấp cả đời sống anh. Anh yêu mến Đấng đã yêu mến Anh vô bờ bến, Anh tìm cách để trở nên giống Người và làm hài lòng Người. Và vì Chúa Giêsu ấy đang ở bên Anh, trong Thánh Thể, nên Anh tự tiêu hao mình trước mặt Người, có thể nói là ngày cũng như đêm, trong một giáp mặt ngọt ngào.

      Đó  thực sự là đời sống hoàn toàn ẩn dật trong Thiên Chúa, trong sự mật thiết của Thánh Gia Thất. Đồng thời, một ý tưởng dẫn dắt Anh là : làm sống lại thân phận nghèo khổ và thân tình từ tất cả những gì đã từng là thân phận của Chúa Giêsu tại Nazareth, mà Anh đã hoài công tìm kiếm trong Hội Thánh dưới triều Đức Lêô XIII.

     Ta hãy dừng lại một lúc. Hãy nhìn xem Đức Thánh Trinh Nữ và Thánh Cả Giuse, phu quân của Mẹ, trong ngôi nhà của các ngài ở Nazareth, trong lúc chờ sinh Chúa Giêsu, hoặc ít lâu sau đó, và hãy cùng với Charles de Foucauld thinh lặng chiêm ngưỡng các ngài. Để nói như ĐTC Benêđictô XVI, đang hiện hữu “những cội rễ” của Hội Thánh, “được ẩn giấu trong bầu khí Nazareth”.

     Rõ ràng là do trực giác, Charles de Foucauld đang kiếm tìm sự giống nhau hoàn hảo với sự nghèo khó, bé mọn, thấp hèn – theo kiểu nói của Anh – chứ không phải “sự giảm giá”, như báo La Croix chú thích ! Không phải vậy! nhưng ích gì mà phải bút chiến. Như Cha Tổng Quyền chúng ta đã nói, nếu chúng ta cùng với Charles de Foucauld không chỉ tìm kiếm sự giống nhau hoàn hảo với sự nghèo khó, bé mọn, thấp hèn ấy của đời sống Nazareth, mà còn tìm cả sự tinh tế, lòng sùng mộ, sự bẽn lẽn, đức chính trực của những người công chính mà chúng ta gặp ở đấy, thì bấy giờ mọi cuộc luận chiến sẽ chấm dứt. Mọi tranh luận đều chấm dứt cách đơn giản nếu chúng ta gắn bó với việc chiêm ngưỡng nhân tính tuyệt diệu kia và sự thánh thiện bừng nở thời kỳ ấy ở Nazareth, ở Aïn-Karim và những nơi khác, như những bông hoa đồng nội. Và từ đó tâm hồn chúng ta được thanh luyện khỏi nọc độc của thói tự cao tự đại có xu hướng ngày càng gia tăng cho rằng điều gì mới lạ thì tốt hơn, còn điều gì xưa cũ là sai lạc và không thích hợp.

     “Tuy nhiên đó là trước thời kỳ vàng son của các Giáo Phụ - Cha Tổng Quyền lưu ý - trước lúc phát triển đời sống đan tu theo thánh Bênêđictô, trước thế kỷ XIII tuyệt vời của chúng ta, trước khi con người trở nên tinh tế hơn, trước khi lý luận kinh điển và các khoa học bùng phát, trước cả “thế giới hiện đại” của chúng ta, trước những linh đạo mới và hoạt động tông đồ của chúng ta nữa.

     “Chúng ta hết sức thán phục sản phẩm của nền văn minh chúng ta ! Hãy biết rằng, trước nền văn minh ấy, ngoài Kitô giáo ra, đã từng có một sự hoàn thiện vượt trên mọi sự hoàn thiện tại một ngôi làng khiêm tốn ở Galilêa.

     “Văn minh ấy không đọc được Chuyện ngụ ngôn của La Fontaine, không biết hát những bài bình ca, chẳng biết được chút nào về những gì xảy đến sau này.”

     Tiếp đến, Cha Tổng Quyền so sánh “những bông huệ ngoài đồng”, Giêsu, Maria, Giuse, với con người được mô tả trong các bài thơ của Homère, những nhân chứng về một sự thanh tao hiếm có, một sự lịch thiệp, một khu xử đáng khâm phục nhưng vẫn không bằng những gì chúng ta chiêm ngưỡng ở Nazareth, trong một sự hoàn hảo siêu nhiên.

     Đó là trước khi có chúng ta, trước các thế kỷ của thời đại chúng ta ngày nay : “Ab initio et ante saecula creata sum…”, Đức Maria nói trong phụng vụ. “Ngay từ khởi thuỷ và trước khi có thế gian, con đã được tạo thành.”. Như vậy, Đức Trinh Nữ có mặt từ lúc mọi sự bắt đầu, trong một sự hoàn hảo siêu việt, trước cả những người có mặt chung quanh Mẹ, thánh Giuse, các Tông Đồ, trước cả những người được dự phần vào sự hoàn thiện do Thần Khí tác thành trong cả thời kỳ Cựu Ước, từ thế hệ này qua thế hệ khác.

     “Vậy phải quay ngược mũi tên của tiến trình không thể đảo ngược ấy, quay trở lại với chế độ cổ xưa, cổ xưa hơn cả Chế Độ Cổ Đại của nước Pháp và thời Trung Cổ, để tìm thấy sự hoàn thiện mà chúng ta bái phục cùng với Anh Charles Chúa Giêsu. Như vậy, Đức Trinh Nữ là Nicéphore 1; Mẹ đạp giập đầu Con Rắn, là người thắng trận trong trào lưu tiến bộ. Ai là người chiến thắng trên hệ tư tưởng khó cưỡng được trong thế giới hiện nay ? Chính là bông hoa bé nhỏ xuất hiện trong một khu vườn ở Galilê mà mùi hương khôn sánh ướp thơm cho nhân loại”, và lôi cuốn từ 5 đến 6 ngàn khách hành hương mỗi ngày đến với nguyện đường Ảnh Vảy hay làm phép lạ, ở Paris ! Hương thơm của bông hoa ấy xua tan mọi chướng khí của thế giới hiện đại.

     Ai yêu mến Đức Maria, thì không thể còn tin vào những mơ mộng kiêu căng cho rằng sự tiến bộ của con người là cần thiết, không thể cưỡng lại và độc nhất vô nhị nữa. Anh Charles Chúa Giêsu đã hiểu ra điều đó. Tư tưởng dẫn dắt Anh là hãy làm cho sống lại thân phận người con của Đức Maria, trong thân phận nghèo khổ và thân hữu với hết mọi người, thân phận người anh em đại đồngnguyên là thân phận của Đức Giêsu ở Nazareth : “Con làm việc vì Chúa, Ôi Giêsu, trước mặt Chúa, cùng với Chúa, ở giữa Chúa và Mẹ Maria cùng với Thánh Giuse, con không ngừng nhìn Chúa, chiêm ngưỡng Chúa, tôn thờ Chúa.”

     Thiên Chúa không thay đổi, con người không thay đổi và các tạo vật hoàn hảo không nằm trong diễn tiến sinh học hoặc xã hội học của vũ trụ, nhưng nằm trong sự sung mãn của các thời đại Tin Mừng, tự bao đời nay ! 

 
(còn tiếp)

Tác giả: Tiểu đệ Bruno de Jésus

Nguồn tin: Trích Tập san “Người đã sống lại!” số 39 - tháng 10/2005, tr. 5-14.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây