Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
Thư số 164 / Năm XIV
* * *
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 05/ 2024
-------------
Phần hai
NHEN LÊN Ý THỨC
I
TRUNG THÀNH VÀ BỀN ĐỖ
Phan Rang, ngày 20.04.2024
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô - Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Chúng ta bước vào Tháng Hoa dâng kính Mẹ. Ngoài Chuỗi Mân Côi thường ngày, xin anh chị em liệu cho bàn thờ gia đình, hay trong phòng riêng luôn có hoa tươi mỗi ngày nha.
Xin tiếp tục học hỏi Huấn thị Phần 2, từ số 23 đến số 28.
Ký ức của Thiên Chúa
23. Trung thành được đo lường bằng thời gian, lịch sử và cuộc sống hằng ngày. Nếu trung thành là một nhân đức chủ yếu của mọi mối tương quan liên vị, thì bền đỗ là một nhân đức đặc biệt của thời gian: cả hai nhân đức ấy đều có liên hệ với nhau. Hiện nay, bị tách khỏi nhau và không có những kiềm chế, hai thực tại này là một thách thức cho mỗi người và cách riêng cho các Kitô hữu. Nhưng làm sao ta có thể nhận ra sự trung thành được, nếu sự trung thành ấy không được rút ra từ sự trung thành của Đấng hằng trung tín (x. 1 Thes 5, 24) và từ đức tin vào Ngài? Người trung thành là người không chia cắt ký ức khỏi hiện tại: điều này làm cho họ có thể bền đỗ. Thật vậy, bền đỗ không thể không được ký ức của Thiên Chúa duy trì. Theo nghĩa này, Kitô hữu nào có được ký ức của Thiên Chúa, đều biết và nhớ lại hoạt động của Chúa. Đó là một ký ức thu hút cõi lòng, ý muốn và tâm trí con người. Một ký ức luôn luôn mới về sự trung thành của Thiên Chúa chính là cái làm nẩy sinh và duy trì sự trung thành của tín hữu.
Thiên Chúa là Đấng trung thành
24. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường thúc đẩy ta nhớ lại tình yêu đặc biệt ưa thích của Đức Kitô và thường tuyên bố rằng: “ta có thể nói một điều gì đó về tình yêu phu phụ của Chúa Giêsu đối với Hội thánh”, một tình yêu có ba đặc điểm: đó là tình yêu trung thành, bền đỗ - Ngài không hề chán nản trong việc yêu thương Hội thánh, và có kết quả, […]. Trung thành là chính bản chất của tình yêu của Chúa Giêsu” 47 .
Chủ đề về sự trung thành và bền đỗ là trọng tâm của Lời Thiên Chúa. Thật vậy, trung thành, (besed), là một trong những phẩm chất chính của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng trung thành. Toàn bộ lịch sử cứu độ chẳng là gì cả chỉ là câu truyện về giao ước giữa Thiên Chúa và tạo thành, giữa Thiên Chúa và dân Ngài là Israel, giữa Thiên Chúa và toàn nhân loại. Sự tốt lành và trung thành là đặc điểm của bản tính Thiên Chúa và mọi hoạt động của Ngài đều hướng về dân được chọn, nhưng cũng hướng về tạo thành.
Thiên Chúa hứa sẽ không bao giờ phản bội giao ước của Ngài, nhưng sẽ trung thành đến muôn đời. Thiên Chúa chiến thắng sự phẫn nộ và mặc lấy tội lỗi của nhân loại để nhân loại lại có thể trung thành với Ngài trong sự tự do họ lấy lại được nhờ ơn tha thứ. Sự trung thành mãi mãi với giao ước chẳng là gì cả chỉ là sự trung thành của Thiên Chúa với lời hứa của Ngài. Ngôn sứ Hôsê nói về sự trung thành của Thiên Chúa như hoa quả của tình yêu ngoan cường Thiên Chúa dành cho dân Ngài nhờ hình ảnh gợi lên cuộc hôn nhân: “Ta sẽ kéo nó lại với ta, ta sẽ đưa nó vào trong sa mạc, lòng kề lòng Ta sẽ nói khó với nó […]. Trong ngày ấy Ta sẽ ký kết giao ước với chúng […] ta sẽ làm cho ngươi thành hôn thê đến muôn đời, Ta sẽ làm cho ngươi thành hôn thê trong công minh, chính trực, trong lòng xót thương và trong tình yêu, ta sẽ đính hôn với ngươi trong trung tín và ngươi sẽ biết Đức Chúa” (Hs 2, 16tt). Sự mỏng giòn liên tục và hiển nhiên của Israel, vừa với tư cách là một dân tộc vừa với tư cách cá nhân, vẫn không làm suy yếu Đá tảng (Đnl 32, 4) của sự trung thành của Thiên Chúa, như tác giả Thánh vịnh viết: Sự trung thành của Chúa từ thế hệ này sang thế hệ kia” (Tv 119, 90).
Đức Kitô, hình ảnh có tính biểu tượng của sự trung thành
25. Từ đó xuất phát việc đáp trả của con người: một sự trung thành trước hết là đức tin và sự tín thác (như được diễn tả trong bản dịch Hy lạp về sự trung thành, bản dịch ấy sử dụng các thuật ngữ pistis/pistenuein [đức tin/ tin] và những phát sinh từ thuật ngữ ấy), là việc cậy dựa vào và gắn bó với các lời hứa và giới luật của giao ước. Mọi đường lối của Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những ai giữ giao ước và các huấn lệnh của Ngài (Tv 25, 10).
Dù Israel không phải là một tôi tớ trung thành, vẫn đang lạc đường và đang lặp lại sự bất trung của thế hệ đi trong sa mạc – một thế hệ ương bướng và nổi loạn lòng không trung thành với Thiên Chúa và tinh thần cũng không ngừng bất trung với Ngài (Tv 78, 8) – Thiên Chúa vẫn không ngừng thể hiện sự trung thành: Ngài vẫn tỏ lòng xót thương ta bằng một tình yêu vững bền mãi mãi (Is 54, 8).
Chủ đề về tương quan và việc canh tân mối tương quan ấy, bất kể những thất trung và tội lỗi của con người, vẫn luôn là đặc tính của toàn lịch sử cứu độ cho tới khi Chúa Giêsu đến. Ngài là người trung thành của Chúa Cha, nên cũng là người trung thành với nhân loại yếu hèn, dễ dàng phạm tội, Ngài không ngừng trao ban lời hứa cứu độ cho dân ấy. Đức Giêsu Kitô là “Amen” của sự trung thành (x. 2 Cr 1, 20; Kh 3, 14). Việc Đức Kitô đến, việc Nhập thể của Ngài, chính là việc thực hiện lời hứa đó. Chúa Giêsu là vị chứng nhân trung thành, như đã được diễn tả trong sách Khải huyền (1, 5), một người tôi tớ thật và đáng tin (Kh 19, 11), mọi sự đã được viết trong luật Môsê, trong các Ngôn sứ và Thánh vịnh đều đã được ứng nghiệm nơi Ngài (Lc 24, 44). Nơi Ngài, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều được thực hiện (x. 2 Cr 1, 20). Sự trung thành của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô (x. 1 Thes 5, 23 – 24).
Đức Kitô, vị chứng nhân trung thành, luôn dạy cho nhân loại sự trung thành, Ngài là hình ảnh của sự trung thành; Ngài trung thành với Thiên Chúa Cha. Ngài mời mọi người trung thành với Lời Ngài. Ân sủng được ban cho ta và ta được mời gọi đáp trả bằng sự trung thành với Chúa Cha nhờ Chúa Con, Đấng đã yêu thương ta và hiến mình vì ta. Một trong những tước hiệu đầu tiên được ban cho các Kitô hữu đó là các tín hữu, để diễn tả đức tin của họ vào Đức Kitô (Cv 10, 45; Ep 1, 1) một đức tin được sinh động nhờ đức mến (Ga 15, 9tt).
Thánh Phaolô thường xuyên sử dụng từ ngữ này, cả cho con người lẫn thái độ và đề cập tới sự trung thành như những hoa trái của Thần khí (Gal 5, 22).
“Tự thân với những nỗ lực của mình, ta không khi nào có thể đạt được sự trung thành này; đó không chỉ là kết quả của những cố gắng hằng ngày của ta; sự trung thành ấy xuất phát từ Thiên Chúa và được đặt nền trên tiếng “vâng” của Đức Kitô, Đấng đã nói: lương thực của thầy là thi hành ý của Cha thầy (x. Ga 4,34). Chính trong tiếng “vâng” này của Đức Kitô mà ta phải bước vào, chính trong tiếng “vâng” này của Đức Kitô, chính trong sự gắn kết với ý Thiên Chúa này mà ta phải bước vào để có thể nói như Thánh Phaolô không phải tôi sống nhưng là Đức Kitô sồng trong tôi” 48 .
Sự trung thành được dưỡng nuôi bằng các cuộc gặp gỡ
26. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa bao giờ cũng đụng phải toàn bộ con người. Trong cuộc gặp gỡ này ta được mời gọi sống việc hoàn toàn dâng hiến bản thân, lý trí và ý chí, tâm trí và tâm hồn cách kiên quyết và ngọt ngào của sự ưng thuận. Đức tin là mầu nhiệm của cuộc gặp gỡ do Thần khí tạo nên, giữa Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn mọi người đang đón nhận Ngôi Lời và chấp nhận được đồng hình, đồng dạng với Ngài.
Việc gặp gỡ Chúa bao giờ cũng mở các môn đệ ra cho sự viên mãn của sự sống. Việc tham dự vào sự sống Ba Ngôi này tự thể hiện theo một kiểu cách trong đó Thiên Chúa là mọi sự và mọi sự đều qui về Ngài: quả thật anh em đã lột bỏ con người cũ cùng với các hành vi của nó và đã mặc lấy con người mới, đã được canh tân, đổi mới, trong sự hiểu biết, theo hình ảnh của Tạo Hoá (Col 3, 9). Ba Ngôi sống trong cuộc đời của những ai đáp lại lời mời gọi đi theo Đức Kitô với việc trao hiến chính bản thân mình: “Đời sống thánh hiến công bố những gì Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần, đem lại nhờ tình yêu, sự tốt lành, và vẻ tuyệt mỹ của Ngài” 49 .
Bền đỗ: ký ức và hy vọng
27. Thuật ngữ bền đỗ xuất hiện trong Tin mừng Nhất lãm, trong Mathêu và Marcô có cùng một thành ngữ: Ai bền đỗ tới cùng sẽ được cứu thoát (Mt 10, 22b; 24, 13; Mc 13, 13); và c cùng một nội dung trong Luca: có kiên trì anh em mới giữ được linh hồn anh em (Lc 21, 19).
Chính Chúa Giêsu, trong bối cảnh long trọng của bữa tiệc Phục sinh, đã trực tiếp, đích thân mời gọi các môn đệ bền đỗ: anh em đã kiên trì với thầy trong những thử thách của thầy (Lc 22, 28). Ngài công bố cho các môn đệ rằng nhân danh Ngài họ sẽ phải chịu cùng những thử thách như thế; và dường như qua việc họ sẵn sàng chịu những thử thách của Ngài, cho đến mức hy sinh tính mạng vì họ, Ngài mới nhìn nhận họ là môn đệ Ngài (Ga 13, 1). Chúa Giêsu thúc đẩy các môn đệ - không chỉ bền đỗ tới cùng – mà còn phải bền đỗ trong việc gìn giữ Lời đã được nghe với tâm hồn quảng đại, cao quý (Lc 8, 15) và trong việc sinh hoa kết quả. Kinh thánh cũng là nguồn của sự bền đỗ, an ủi và hy vọng, đồng thời cũng là nguyên nhân của các cuộc bắt bớ phải đương đầu (Kh 15, 4).
Các bản văn Tin mừng đã trình bày rồi về một số chủ đề đặc biệt của cuộc thảo luận sau đó của Tân ước về sự bền đỗ, một đặc tính cần thiết và quan trọng của các Kitô hữu. Thư của Thánh Giacôbê, cách điển hình, mở đầu bằng chính lời khuyên bền đỗ: anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì (Gcb 1, 2 – 4).
Bền đỗ được hiểu trước hết là sự kiên trì, là khả năng có thể trải qua các thử thách, chuẩn bị cho mình nên hoàn thiện và hoàn hảo.
Bền đỗ, như Thánh Phaolô đã sống và làm chứng là nhân đức của những người cố chiến đấu để trung thành với Đức Kitô (1 Tim 6, 11 – 12). Kitô hữu được kêu gọi bền đỗ theo gương Đức Kitô, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định (x. Lc 22, 28).
28. Thư Hipri kêu gọi ta bền đỗ trong cuộc đua dành cho ta, 2 mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin (Hr 12, 1 – 2). Trong sự bền đỗ tình yêu chân thành dành cho Đức Kitô được bày tỏ, một tình yêu dán chặt con mắt lòng trí vào Ngài, như một lực sĩ luôn dán mắt vào vạch đích. Khi cuộc sống không có mục đích, mọi sự sẽ thành nặng nề, vô nghĩa và tình yêu thành bất ổn.
“Tác giả thư Hipri nói: ‘Quả vậy, anh em chỉ cần bền đỗ thôi, để anh em có thể thực thi ý Thiên Chúa và đón nhận những gì đã được hứa’. Bền đỗ để đạt tới lời hứa. Và con đường của lời hứa, có những khoảnh khắc đẹp, những khoảng sáng và tối” 50 . Đức Giáo Hoàng khuyên, ta phải luôn bền đỗ, theo hai chỉ dẫn mà Thánh Tông đồ đề nghị: ký ức và hy vọng. Bạn hãy nhớ lại “những ngày hạnh phúc của việc gặp gỡ Chúa, chẳng hạn” hay nhớ lại “khi ta làm một việc tốt và cảm thấy Chúa đang ở kề bên […] hay khi ta chọn vào chủng viện, vào đời sống thánh hiến” 51 . Tác giả thư Hipri gợi nhớ lại việc hồi tưởng ‘những ngày xa xưa ấy khi mọi sự vẫn huy hoàng’. Chỉ dẫn thứ hai là ‘hy vọng’, “khi ma quỉ tấn công ta bằng các cơn cám dỗ, nết xấu, sự khốn khổ, ta phải luôn hướng về Chúa, về sự cam chịu thập giá, bằng cách nhớ lại những khoảnh khắc thật đẹp của tình yêu, của việc gặp gỡ Chúa và nhớ lại niềm hy vọng đang đổ đầy lòng ta 52 .
Sự bền đỗ của người thánh hiến cũng là quà tặng của vị Thiên Chúa của giao ước: “làm chứng thầm lặng nhưng hùng hồn của các tu sĩ cho vị Thiên Chúa trung thành, tình yêu của Ngài không hề chấm dứt” 53 . Đời sống thánh hiến phát sinh từ việc sống kinh nghiệm của Tình yêu cứu độ, dưới ánh sáng của sự trung thành của Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần, bao giờ cũng tìm được ý nghĩa của mình trong động lực của sự trung thành 54 .
Bền đỗ trong trung thành
29. Khởi đi từ các văn kiện của Công đồng, việc nối kết “trung thành – bền đỗ” vẫn luôn là đặc tính của huấn quyền về đời sống thánh hiến. Công đồng, cũng như các văn kiện sau Công đồng, không coi hai thuật ngữ ấy là hai từ đồng nghĩa nhưng là các khía cạnh không thể tách rời của một thái độ tâm linh duy nhất: bền đỗ là một thuộc tính quan trọng của trung thành. Trong các văn kiện của Công đồng và trong các văn kiện ngay sau Công đồng, sự bền đỗ xuất hiện cách đặc biệt như thuộc tính của trung thành, như một trong các phẩm chất tạo nên trung thành, một phẩm chất kết hợp với sự khiêm nhường.
Số 46 của Hiến Chế Tín Lý Lumen gentium, công khai diễn tả sự vĩ đại của đời thánh hiến đặc biệt, một cuộc đời kéo dài sự hiện diện của Đức Kitô trong lịch sử, nhờ dấu chỉ và công việc của những người thánh hiến: “Thượng Hội Đồng này khuyến khích và ca ngợi những người nam và nữ, các Thầy và các Soeur, những người, trong các đan viện hay trong các học đường và bệnh viện, hoặc trong các sứ vụ, luôn trang điểm cho Hiền Thê của Đức Kitô qua sự trung thành không thay đổi và khiêm nhu trong sự hiến thánh tự nguyện và qua việc quảng đại phục vụ toàn nhân loại” 55 . Nên chính sự trung thành bền đỗ và khiêm tốn đối với sự thánh hiến đã làm nên định nghĩa của cuộc đời của những người hiến thánh ấy.
______________
Chú thích:
47. Phanxicô, Suy niệm hằng ngày trong nhà nguyện Domus Santae Marthae, (2. 6. 2014), trong: L’ Osservatore Romano, bản tiếng Ý, năm CLIV, số 124, Thứ ba 3/6/2014.
48. Benedict XVI, Buổi Tiếp kiến chung, Vatican (30. 5. 2012).
49. Gioan Phaolô II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata, (25. 3. 1996), 20.
50. Phanxicô, Suy gẫm hằng ngay trong nhà nguyện Domus Sanctae Marthae, Memory and Hope, (01. 02. 2019).
51. Ibid.,
52. Ibid.
53. Thánh Bộ Tu sĩ và Tu Hội Đời, Essential Elements in the Church’s Teaching on Religious Life as Applied to Institutes Dedicated to Works of the Apostulate, Rome (31. 05. 1983), 37.
54. Xem Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata, (25. 3. 1996), 70.
55. Công đồng Đại kết Công Đồng Vatican II, Hiến chế Tín Lý về Hội thánh Lumen gentium, 46.
===========