Thư chung sô 152 - 05/2023

Thứ ba - 25/04/2023 02:32
Thư chung sô 152 - 05/2023
Thư chung sô 152 - 05/2023
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 152 / Năm XIII
                    * * *                                         

 
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 05/ 2023
-------------
TÔNG HUẤN
GAUDETE ET EXSULTATE
 

Phan Rang, ngày 20.04.2023

Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,

            Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô - Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.

            Chúng ta bước vào tháng hoa dâng kính Mẹ trên trời kính yêu của chúng ta. Xin anh chị em sửa don lại bàn thờ của gia đình, cũng như kẹ thờ riêng của mình. Mong rằng trong tháng này, trước bàn thờ mẹ luôn có hoa tươi biểu lộ lòng thành kính yêu mến và biết ơn của chúng ta đối với Mẹ. Đặc biệt xin anh chị em đừng quên lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày.

            Tháng này, chúng ta học hỏi tiếp Chương 2 của Tông Huấn Gaudete et Exsultate.

THUYẾT PALAGIÔ HIỆN ĐẠI

47.  Thuyết Ngộ Đạo đã nhường chỗ cho một dị giáo khác, cũng hiện diện trong thời đại chúng ta.  Theo thời gian, nhiều người nhận ra rằng không phải kiến ​​thức làm cho chúng ta trở nên tốt hơn hoặc làm cho chúng ta nên thánh, mà là cách chúng ta sống.  Nhưng điều này đã tinh vi dẫn trở lại sai lầm cũ của những người theo thuyết ngộ đạo, là thuyết chỉ đơn thuần được biến đổi chứ không bị loại trừ.

48.  Cùng một sức mạnh mà những người theo ngộ đạo đã gán cho kiến thức, thì những người khác giờ đây bắt đầu gán cho ý chí của con người, với nỗ lực cá nhân.  Đây là trường hợp những người theo thuyết Pelagiô và thuyết bán-Palagiô.  Giờ đây không phải là trí thông minh thay thế cho mầu nhiệm và ân sủng, mà là ý chí của con người.  Người ta đã quên rằng mọi sự “không tùy thuộc vào ý muốn hay nỗ lực của con người, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng tỏ lòng thương xót” (Rom 9:16) và “Ngài đã yêu thương chúng ta trước” (x. 1 Ga 4:19).

Một ý chí thiếu khiêm tốn

49.  Những người đầu hàng não trạng Pelagiô hoặc bán-Pelagiô này, mặc dù vẫn nhiệt thành nói về ân sủng của Thiên Chúa, nhưng họ “chung cuộc chỉ tin cậy vào sức riêng của họ và cảm thấy mình tốt hơn người khác bởi vì họ tuân giữ một số quy luật nào đó hoặc vẫn tuyệt đối trung thành với một kiểu Công giáo đặc thù” [46].  Khi một số người trong họ nói với những người yếu đuối rằng tất cả mọi sự có thể được hoàn thành với ân sủng của Thiên Chúa, tận đáy lòng họ có chiều hướng đưa ra ý tưởng rằng mọi sự đều có thể làm được theo ý chí của con người, như thể nó là một điều gì thanh sạch, hoàn hảo, toàn năng, mà trong đó ân sủng được thêm vào.  Họ không nhận ra rằng “không phải ai cũng có thể làm được mọi sự” [47], và rằng trong cuộc đời này, sự yếu đuối của con người không được chữa lành cách hoàn toàn và một lần cho xong bằng ân sủng [48].  Trong mọi trường hợp, như thánh Augustinô dạy, Thiên Chúa truyền cho anh chị em làm những gì anh chị em có thể và cầu xin cho những gì anh chị em không thể làm được [49], và thực sự cầu nguyện với Ngài cách khiêm tốn: “Xin ban cho con những gì Ngài truyền dạy, và truyền dạy con những gì Ngài muốn” [ 50].

50.  Cuối cùng, việc thiếu một nhìn nhận chân thành và trong cầu nguyện những giới hạn của chúng ta, ngăn cản ân sủng làm việc hiệu quả hơn trong chúng ta, vì không còn chỗ để cho sự tốt lành tiềm tàng, là một phần của một cuộc hành trình chân thành và chính đáng của việc tăng trưởng, có thể xảy ra.  [51] Ân sủng, chính vì xây trên tính tự nhiên, không làm cho chúng ta thành siêu nhân ngay tức thì.  Kiểu suy nghĩ ấy cho thấy quá nhiều tin cậy vào khả năng của mình.  Bên dưới sự chính thống của chúng ta, các thái độ của chúng ta có thể không tương ứng với lời nói của mình về nhu cầu ân sủng, và trong những hoàn cảnh cụ thể chúng ta có thể sẽ không mấy đặt niềm tin vào nó.  Trừ khi chúng ta có thể nhìn nhận hoàn cảnh cụ thể và giới hạn của mình, chúng ta sẽ không thể thấy được những bước thật sự và khả thi mà Chúa đòi hỏi chúng ta trong mọi lúc, một khi chúng ta được hồng ân của Người thu hút và ban khả năng.  Ân sủng hành động trong lịch sử; thông thường thì ân sủng nắm lấy chúng ta và biến đổi chúng ta cách từ từ [52].  Nếu chúng ta từ chối thực tại lịch sử và tiệm tiến này, chúng ta có thể thực sự từ chối và ngăn chặn ân sủng, ngay cả khi chúng ta ca tụng nó bằng lời nói của mình.

51.  Khi Thiên Chúa nói với ông Abraham, Ngài bảo ông: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng, hãy đi trước mặt Ta, và hãy nên trọn lành” (St 17: 1).  Để được nên trọn lành, như Ngài muốn cho chúng ta, chúng ta cần phải sống khiêm tốn trong sự hiện diện của Ngài, được che phủ trong vinh quang của Ngài; chúng ta cần bước đi cùng với Ngài, trong khi nhận ra tình yêu không ngừng của Ngài trong cuộc đời mình.  Chúng ta cần phải không còn sợ hãi trước sự hiện diện ấy, là sự hiện diện chỉ có thể có vì ích lợi của chúng ta.  Thiên Chúa là Người Cha đã ban cho chúng ta sự sống và yêu thương chúng ta rất nhiều.  Một khi chúng ta chấp nhận Ngài, và chấm dứt tìm cách sống đời mình mà không có Ngài, thì nỗi thống khổ của cô đơn sẽ biến mất (x. Tv 139:23-24).  Bằng cách này, chúng ta sẽ biết được ý muốn vui lòng và hoàn hảo của Chúa (x. Rom 12:1-2) và để cho Người  nhào nặn chúng ta như một thợ gốm (x. Is 29:16).  Chúng ta thường nói rằng Thiên Chúa ngự trong chúng ta, nhưng tốt hơn là nói rằng chúng ta ở trong Ngài, để Ngài có thể giúp chúng ta sống trong ánh sáng và tình yêu của Ngài.  Ngài là đền thờ của chúng ta; chúng ta cầu xin được ở trong nhà Chúa mọi ngày của đời mình (x. Tv 27: 4).  “Vì một ngày trong khuôn viên Đền Thánh của Chúa còn hơn một ngàn ngày ở những nơi khác” (Tv 84:10).  Trong Ngài là sự thánh thiện của chúng ta.

Một giáo huấn của Hội Thánh thường bị coi nhẹ

52.  Hội Thánh đã nhiều lần dạy rằng chúng ta được nên công chính không nhờ các việc làm hay nỗ lực riêng của mình, nhưng nhờ ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn chủ động.  Các Giáo Phụ của Hội Thánh, ngay cả trước Thánh Augustinô, đã bày tỏ rõ ràng niềm tin cơ bản này.  Thánh Gioan Kim Khẩu nói rằng Thiên Chúa đổ vào chúng ta chính nguồn mạch của tất cả mọi hồng ân của Ngài thậm chí trước khi chúng ta bước vào trận chiến [53].  Thánh Basiliô Cả nhận xét rằng các tín hữu chỉ được vinh quang nơi một mình Thiên Chúa, vì “họ nhận ra rằng họ thiếu sự công chính đích thực và chỉ được công chính hoá nhờ đức tin vào Đức Kitô” [54].

53.  Công Đồng Orange II đã dạy với thẩm quyền chắc chắn rằng không có gì thuộc về nhân loại có thể đòi hỏi, xứng đáng hoặc mua được món quà ân sủng của Thiên Chúa, và rằng tất cả sự hợp tác với ân sủng cũng là một ân huệ đi trước ân sủng ấy: “Ngay cả ước muốn được thanh tẩy cũng xảy ra trong chúng ta nhờ việc đổ đầy và tác động của Chúa Thánh Thần” [55].  Sau đó, Công Đồng Trentô, trong khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự hợp tác của chúng ta trong việc phát triển tâm linh, đã khẳng định lại giáo huấn tín lý ấy: “Chúng ta được nói là được công chính hoá một cách nhưng không vì không có gì đi trước sự công chính hoá xứng đáng với ơn công chính hoá, cho dù là đức tin hay việc làm; vì ‘nếu nhờ ân sủng, thì không còn dựa vào việc làm; nếu không thì ân sủng sẽ không còn là ân sủng nữa’ (Rom 11: 6)” [56].

54.  Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo cũng nhắc nhở chúng ta rằng món quà ân sủng “vượt trên sức mạnh của trí tuệ và ý chí của con người” [57] và “Với Thiên Chúa, con người tuyệt đối không có quyền hay công trạng gì.  Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự bất bình đẳng khôn lường” [58].  Tình bằng hữu của Ngài vô hạn vượt trên chúng ta; chúng ta không thể mua tình bằng hữu này bằng các việc làm của mình, nó chỉ có thể là một món quà phát sinh từ sáng kiến ​​yêu thương của Ngài.  Điều này mời gọi chúng ta sống trong niềm tri ân vui mừng vì món quà hoàn toàn không xứng đáng này, vì “sau khi một người có được ân sủng, thì ân sủng đã sở hữu không thể đến nhờ công trạng” [59].  Các Thánh tránh việc tin cây vào việc làm của mình: “Vào buổi tối của cuộc đời này, con sẽ ra trước mặt Ngài tay trắng, vì lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các công việc của con.  Tất cả sự công chính của chúng con đều có vết nhơ trong mắt Chúa” [60].

55.  Đây là một trong những xác tín lớn mà Hội Thánh đã kiên quyết giữ vững.  Nó được diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa mà không ai có thể thắc mắc gì được.  Giống như giới luật yêu thương tối cao, chân lý này phải ảnh hưởng đến cách sống của chúng ta, vì nó chảy ra từ trung tâm của Tin Mừng và đòi buộc chúng ta không những chỉ chấp nhận nó về mặt trí tuệ mà còn biến nó thành một nguồn mạch của niềm vui hay lây.  Nhưng chúng ta không thể mừng hồng ân nhưng không này của tình bằng hữu của Chúa, trừ khi chúng ta nhận ra rằng cuộc đời trần thế của mình và khả năng tự nhiên của mình cũng là hồng ân của Ngài.  Chúng ta cần “nhìn nhận một cách hân hoan rằng sự sống của chúng ta chủ yếu là một hồng ân, và ý thức rằng tự do của chúng ta là một ân huệ.  Điều này không dễ dàng ngày nay, trong một thế giới nghĩ rằng nó có thể giữ lại cho chính mình một điều gì đó, là thành quả của sự sáng tạo hoặc tự do của nó” [61].

56.  Chỉ có thể dựa vào hồng ân của Thiên Chúa, được tự do và khiêm tốn đón nhận, mà chúng ta có thể cộng tác bằng các nỗ lực của mình vào việc từ từ biến đổi mình [62].  Trước hết, chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa, bằng cách hiến dâng chính mình cho Ngài, là Đấng đã ở đó trước, và trao phó cho Ngài khả năng của mình, các nỗ lực của mình, cuộc chiến đấu chống lại sự dữ và sáng kiến của mình, để hồng ân nhưng không của Ngài có thể lớn lên và phát triển trong chúng ta: “Vì vậy, thưa anh em, tôi van nài anh em, vì lòng thương xót của Thiên Chúa, hãy hiến dâng thân xác anh em như một của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rom 12: 1).  Về vấn đề ấy, Hội Thánh luôn luôn dạy rằng chỉ có đức ái mới làm cho việc lớn lên trong đời sống ân sủng xảy ra, vì “nếu tôi không có đức ái, tôi chỉ là không” (1 Cr 13:2).

Thuyết Palagiô mới

57.  Tuy nhiên, một số Kitô hữu nhất quyết đi theo một con đường khác, là con đường công chính hoá bằng các nỗ lực riêng của họ, việc tôn thờ ý chí nhân loại và khả năng riêng của họ.  Kết quả là một sự tự mãn quy về mình và tự coi mình là ưu tú, làm mất tình yêu thật.  Điều này được diễn tả bằng nhiều cách suy nghĩ và hành động có vẻ rời rạc khác nhau: việc bám chặt vào luật lệ, việc quá bận tâm với các lợi thế xã hội và chính trị, một mối quan tâm quá thận trọng với phụng vụ, tín lý và uy tín của Hội Thánh, một sự huênh hoang về khả năng quản lý các vấn đề thực tiễn, và một quan tâm quá mức về các chương trình tự giúp mình và thành tựu cá nhân.  Một số Kitô hữu dành thời giờ và sức lực của họ cho những điều này thay vì để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ theo con đường tình yêu, hơn là say mê truyền đạt vẻ đẹp và niềm vui của Tin Mừng và tìm những người bị lạc trong đám đông vô số người đang khao khát Đức Kitô [63].

58.  Rất thông thường, đi ngược với những thúc đẩy của Thần Khí, đời sống của Hội Thánh có thể trở thành một tác phẩm trong viện bảo tàng hoặc vật sở hữu của một số ít người ưu tuyển.  Điều này có thể xảy ra khi một số nhóm Kitô hữu quá coi trọng một số luật lệ, thói quen hoặc cách hành động nào đó.  Như thế Tin Mừng có khuynh hướng bị giảm thiểu và thu hẹp lại, bị tước mất tính đơn giản, sức quyến rũ và hương vị của nó.  Đây có thể là một hình thức tinh tế của thuyết Pêlagiô, vì nó có vẻ bắt đời sống ân sủng lệ thuộc vào một số cấu trúc nhân loại.  Nó có thể ảnh hưởng đến các nhóm, các phong trào và các cộng đồng, và nó giải thích tại sao họ thường hay bắt đầu với một cuộc sống mãnh liệt trong Thần Khí, mà kết cục là bị hóa thạch ...  hoặc hư hoại.

59.  Một khi chúng ta tin rằng mọi sự đều tùy thuộc vào nỗ lực của con người như được chuyển đi  bằng những luật lệ và cấu trúc của Hội Thánh, chúng ta vô tình phức tạp hoá Tin Mừng và trở thành nô lệ cho một kế hoạch chi tiết, chỉ để vài lỗ hổng cho tác động của ân sủng.  Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở chúng ta rằng các giới luật được Hội Thánh thêm vào Tin Mừng phải được áp dụng một cách vừa phải “nếu không thỉ cách cư xử của các tín hữu trở nên nặng nề”, khi đó tôn giáo của chúng ta sẽ trở thành một hình thức nô lệ [64].  

Tóm tắt Lề Luật

60.  Để tránh điều này, tốt nhất là chúng ta hãy tự nhắc nhở mình rằng có một nấc thang nhân đức là điều mời gọi chúng ta tìm kiếm điều gì là thiết yếu.  Tính ưu việt thuộc về các nhân đức đối thần, là các nhân đức có Thiên Chúa là đối tượng và động lực của chúng.  Ở trung tâm là đức ái.  Thánh Phaolô nói rằng điều thật sự đáng kể là “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5:6).  Chúng ta được mời gọi cố gắng hết sức để bảo tồn đức ái: “Ai yêu thương tha nhân đã chu toàn lề luật ...  vì yêu thương là làm tròn lề luật” (Rom 13:8-10).  “Vì toàn thể lề luật được tóm lược trong một điều răn duy nhất: ‘các con hãy yêu tha nhân như chính mình’” (Gl 5:14).

61.  Nói cách khác, giữa một đám  giới luật và mệnh lệnh, Chúa Giêsu đã dọn sạch một con đường để nhìn thấy hai khuôn mặt, là khuôn mặt của Chúa Cha và của anh chị em chúng ta.  Người không cho chúng ta thêm hai công thức hoặc hai giới luật nữa.  Người cho chúng ta hai khuôn mặt, hoặc tốt hơn nữa, một khuôn mặt duy nhất: khuôn mặt của Thiên Chúa được phản chiếu trong rất nhiều khuôn mặt khác.  Vì trong mỗi anh chị em của chúng ta, đặc biệt là những người bé nhỏ nhất, những người dễ bị tổn thương nhất, những người không có khả năng tự vệ và những người túng thiếu, người ta tìm thấy chính hình ảnh của Thiên Chúa.  Thật vậy, với những mảnh vụn của nhân loại mỏng manh này, Chúa sẽ hình thành tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của Người.  Vì “có điều gì kéo dài, điều gì có giá trị trong cuộc sống, điều gì phong phú mà không biến mất?  Chắc chắn hai điều này: Chúa và người lân cận của chúng ta.  Hai sự phong phú này không biến mất!” [65].

62.  Nguyện xin Chúa giải thoát Hội Thánh khỏi những hình thức ngộ đạo và Pelagiô mới này, là những điều đang đè nặng và ngăn chặn sự tiến bộ của Hội Thánh trên con đường nên thánh! Những lầm lạc này có nhiều hình thức khác nhau, theo tính tình và cá tính của mỗi người.  Vì vậy, tôi khuyến khích mọi người hãy suy nghĩ và phân biệt trước mặt Thiên Chúa xem chúng có thể hiện diện trong cuộc sống của mình hay không.

 
====== 

Tác giả: ĐTC Phanxicô

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây