Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
Thư số 155 / Năm XIII
* * *
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 08/ 2023
-------------
TÔNG HUẤN
GAUDETE ET EXSULTATE
Phan Rang, ngày 20.07.2023
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô - Chúa chúng ta, Tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Xin anh chị em học hỏi chương 4 của Tông Huấn.
Chương 4: Những dấu chỉ của sự thánh thiện trong thế giới ngày nay
Tóm lược : Đức Thánh Cha nói tiếp về “một số khía cạnh của lời mời gọi nên thánh” mà ngài “hy vọng sẽ rất có ý nghĩa”, dưới hình thức “năm cách diễn tả cao độ tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận, có tầm quan trọng đặc biệt,dưới ánh sáng của một số mối nguy và hạn chế trong văn hoá ngày nay”.
- Bền chí, kiên nhẫn và hiền lành
Điều này mô tả sức mạnh nội tâm, dựa trên Thiên Chúa, khiến chúng ta có thể làm chứng cho việc kiên trì làm điều thiện. Chúng ta cần phải nhận ra và chống lại các xu hướng hiếu chiến và ích kỷ của chúng ta. Các Kitô hữu “có thể bị cuốn vào các mạng bạo lực bằng lời nói qua internet và nhiều diễn đàn truyền thông kỹ thuật số khác nhau”. Ngay cả trong truyền thông Công giáo, người ta có thể vượt qua các giới hạn, phỉ báng và vu khống có thể trở nên phổ biến. “Đáng chú ý là đôi khi, người ta cho rằng mình giữ các điều răn khác, mà lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, là điều răn cấm làm chứng gian và nói dối, và như thế là gièm pha người khác cách một cách tàn nhẫn”.
Thật không hay khi chúng ta nhìn xuống những người khác như những thẩm phán vô cảm, thống trị họ và cứ muốn dạy cho họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh tế.
Bước đi trên đường nên thánh nghĩa là phải “khiêm hạ mỗi ngày”, chẳng hạn “những người giữ im lặng để gìn giữ gia đình mình, những người chuộng việc khen ngợi người khác hơn là khoe khoang chính mình, hay những người chọn những công việc ít được ưa thích, thậm chí đôi khi còn chọn gánh lấy bất công để dâng cho Chúa”. Cư xử như thế “cho thấy một tâm hồn được bình an của Chúa Kitô, được giải thoát khỏi tính hung hăng gây ra bởi chủ nghĩa duy kỷ quá trớn”.
- Niềm vui và tinh thần hài hước
Các thánh nhân thì vui vẻ và đầy tính hài hước. Họ toả ra một tinh thần tích cực và đầy hy vọng, ngay cả trong những khi khó khăn. Hài hước ác ý không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. Buồn rầu có thể là một dấu chỉ của vô ơn đối với ơn Chúa. Nền văn hoá cá nhân và tiêu thụ ngày nay không tạo ra niềm vui đích thực; chủ nghĩa tiêu thụ chỉ làm cho tâm hồn trĩu nặng, nó không mang lại niềm vui mà chỉ là những vui thích nhất thời, chóng qua.
- Dũng cảm và say mê
Sự thánh thiện cũng là parresía: sự dũng cảm, một động lực để loan báo Tin Mừng và để lại dấu ấn trong thế giới này. “Dũng cảm và lòng can đảm tông đồ là một phần thiết yếu của sứ mệnh”. Nếu chúng ta dám đi đến vùng ngoại biên, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã ở đó, trong tâm hồn của những người anh chị em chúng ta, trong thân xác mang thương tích của họ, trong những lo âu và nỗi cô đơn sâu xa của họ.
Giáo hội cần những nhà thừa sai nhiệt thành, sẵn sàng chia sẻ cuộc sống thực hơn là các kẻ quan liêu và các công chức. Các thánh làm cho chúng ta ngạc nhiên, làm cho chúng ta bối rối, bởi vì qua đời sống của mình, các ngài thúc giục chúng ta phải từ bỏ tính tầm thường tẻ nhạt chán ngắt. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiêm ngắm lịch sử dưới ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Bằng cách này, Giáo hội sẽ không tĩnh tại, nhưng luôn đón nhận những điều bất ngờ của Chúa.
- Trong cộng đoàn
Lớn lên trong sự thánh thiện là một hành trình sống và làm việc trong cộng đoàn với những người khác. Chia sẻ Lời và cùng nhau cử hành Thánh Thể sẽ nuôi dưỡng tình huynh đệ và làm cho chúng ta trở thành một cộng đoàn thánh thiện và truyền giáo. Việc ấy cũng làm phát sinh những kinh nghiệm huyền bí và đích thực chung.
Tuy nhiên, những kinh nghiệm như thế ít xảy ra và ít quan trọng hơn những điều nhỏ bé hằng ngày. Chúa Giêsu đòi các môn đệ của Người quan tâm đến những chi tiết nhỏ: bữa tiệc hết rượu, con chiên đi lạc, hai đồng xu nhỏ của bà góa. Đôi khi giữa những chi tiết nhỏ bé ấy, chúng ta được Chúa ban cho niềm an ủi.
- Thường xuyên cầu nguyện
Lời cầu nguyện đầy tin tưởng dù dài ngắn thế nào cũng là lời đáp của một tâm hồn mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa diện đối diện, nơi đó có thể nghe được tiếng nói yên lặng của Chúa. Trong cõi thinh lặng ấy, chúng ta có thể phân định được con đường nên thánh mà Chúa mời gọi chúng ta. Với mỗi người môn đệ, cần phải dành thời gian sống với Thầy, lắng nghe Thầy nói, và luôn học hỏi ở Thầy.
Thiên Chúa đi vào lịch sử của chúng ta, và vì vậy lời cầu nguyện của chúng ta đan xen với những ký ức. Hãy nghĩ về lịch sử đời mình khi chúng ta cầu nguyện, và ở đó chúng ta sẽ gặp được lòng thương xót.
Lời cầu nguyện van nài là thể hiện của một tâm hồn tin tưởng vào Thiên Chúa và nhìn nhận rằng mình không thể tự mình làm gì được. Lời cầu nguyện xin ơn thường làm cho cõi lòng chúng ta bình an và giúpchúng ta kiên trì trong hy vọng. Lời cầu nguyện chuyển cầu là thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa, đồng thời là thể hiện lòng yêu thương người thân cận của chúng ta.
Trong bí tích Thánh Thể, lời viết ra đạt được hiệu quả cao nhất, vì nơi đó có Lời hằng sống thực sự hiện diện.
CHƯƠNG 4
CÁC ĐẶC TÍNH CỦA SỰ THÁNH THIỆN TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
110. Trong khuôn khổ của sự thánh thiện cao cả mà các Mối Phúc Thật và Matthêu 25:31-46 đưa ra, tôi muốn đề cập đến một số đặc tính hoặc biểu thức tâm linh, theo thiển ý của tôi, là rất cần thiết để hiểu được cách sống mà Chúa mời gọi chúng ta. Tôi sẽ không ngừng lại để giải thích các phương tiện thánh hóa đã được chúng ta biết đến: các phương pháp cầu nguyện khác nhau, các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải vô giá, việc dâng những hy sinh cá nhân, các hình thức sùng kính khác nhau, việc linh hướng và nhiều việc khác nữa. Ở đây, tôi sẽ chỉ nói về một số khía cạnh của ơn gọi nên thánh mà tôi hy vọng sẽ vang âm một cách đặc biệt.
111. Các đặc tính tôi muốn nhấn mạnh không phải là tất cả những gì có thể tạo thành một mô hình nên thánh, nhưng chúng là năm biểu hiện tuyệt vời của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân mà tôi cho là có tầm quan trọng đặc biệt vì một số nguy cơ và giới hạn nào đó của nền văn hoá hiện nay. Trong nền văn hoá này chúng ta thấy một cảm giác lo lắng, đôi khi bạo động, làm cho chúng ta sao lãng và suy nhược; sự tiêu cực và buồn rầu; tính tự mãn được nuôi dưỡng bằng chủ nghĩa tiêu thụ; chủ nghĩa cá nhân; và tất cả những hình thức tâm linh sai lạc, không gặp gỡ được Thiên Chúa, hiện đang thống trị thị trường tôn giáo thời nay.
KIÊN TRÌ, KIÊN NHẪN VÀ HIỀN LÀNH
112. Đặc tính đầu tiên trong những đặc tính to tát này có nền tảng vững chắc nơi Thiên Chúa, Đấng yêu thương và nâng đỡ chúng ta. Nguồn sức mạnh nội tâm này giúp chúng ta kiên trì giữa những thăng trầm của cuộc đời, nhưng cũng giúp chúng ta chịu đựng được sự thù địch, phản bội và thất bại của người khác. “Nếu Thiên Chúa giúp chúng ta, thì ai chống lại được chúng ta?” (Rom 8:31): đây là nguồn bình an được tìm thấy nơi các thánh. Sức mạnh nội tâm như vậy khiến chúng ta có thể làm chứng về sự thánh thiện qua việc kiên nhẫn và kiên định làm việc lành trong một thế giới đầy biến động, ồn ào và năng nổ của chúng ta. Đó là lòng trung thành phát sinh từ tình yêu, vì những ai tin tưởng vào Thiên Chúa (pístis) cũng có thể trung thành với tha nhân (pistós). Họ không bỏ rơi người khác trong những lúc khó khăn; họ đồng hành với những người ấy trong cơn ưu phiền và sầu khổ của họ, mặc dù làm như thể có thể không mang lại cho những người ấy các thoả mãn tức thì.
113. Thánh Phaolô đã xin các tín hữu Rôma đừng “lấy ác báo ác” (x. Rom 12:17), đừng tìm cách trả thù (x. 19), đừng để bị sự dữ khuất phục, nhưng lấy điều lành mà khuất phục sự dữ (x. 21). Thái độ này không phải là dấu chỉ của sự yếu đuối mà của sức mạnh thật sự, bởi vì chính Thiên Chúa “chậm bất bình nhưng rất quyền năng” (Nah 1:3). Lời Chúa khuyên chúng ta hãy “loại bỏ tất cả mọi đắng cay, phẫn nộ, giận hờn, chửi bới, cùng mọi điều gian ác” (Eph 4:31).
114. Chúng ta cần phải vật lôn với và đề phòng các khuynh hướng hung hăng và ích kỷ của mình, và đừng để cho chúng bén rễ. “Hãy nóng giận, nhưng đừng phạm tội. Chớ để mặt trời lặn trên cơn giận của anh em” (Eph 4:26). Khi cảm thấy bị đuối sức, chúng ta luôn luôn có thể bám lấy mỏ neo cầu nguyện, là điều đưa chúng ta trở lại vòng tay Thiên Chúa và nguồn bình an của chúng ta. “Anh em đừng lo lắng về bất cứ điều gì, nhưng trong mọi sự, hãy dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin của anh em bằng kinh nguyện, xin ơn, và tạ ơn. Và bình an của Thiên Chúa, là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng trí anh em...” (Pl 4: 6-7).
115. Kitô hữu cũng có thể bị cuốn vào mạng lưới bạo lực bằng lời nói qua mạng internet và các diễn đàn truyền thông thuật số khác nhau. Ngay cả trong các phương tiện truyền thông Công Giáo, các ranh giới có thể bị vượt qua, phỉ báng và vu khống có thể trở nên phổ thông, cùng tất cả các tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng danh tiếng của người khác có thể bị gạt đi. Kết quả là một sự phân đôi nguy hiểm, vì những gì có thể được nói ở đó có thể không được chấp nhận trong các cuộc thảo luận công khai, và người ta tỉm cách bù đắp cho sự bất mãn của mình bằng cách mạ lỵ người khác. Điều đáng chú ý là đôi khi, có những người tự cho là mình giữ các điều răn khác, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua điều răn thứ tám, “chớ làm chứng dối”, và tàn nhẫn huỷ hoại thanh danh người khác. Ở đó, họ chứng tỏ một cách không giữ gìn rằng “cái lưỡi là “thế giới của sự dữ” và “thiêu huỷ toàn thể đời sống chúng ta, vì được nhóm lên bởi lửa hoả ngục” (Gc 3:6).
116. Sức mạnh nội tâm, là việc làm của ân sủng, tránh cho chúng ta khỏi bị kích động bởi bạo lực, là điểu tràn ngập đời sống xã hội ngày nay, bởi vì ân sủng làm giảm bớt tính ham danh và giúp người ta dễ dàng trở nên có lòng hiền lành. Các thánh không phí sức than phiền về những thất bại của người khác; các ngài có thể cột lưỡi của mình trước những lỗi lầm của anh chị em mình, và tránh những hành động bạo lực bằng lời nói hạ nhục và ngược đãi người khác, bởi vì các ngài cho là mình không xứng đáng để đối xử khắc nghiệt với tha nhân, nhưng coi họ như “hơn mình” (Pl 2: 3).
117. Thật không tốt khi chúng ta nhìn xuống người khác như những quan toà tàn nhẫn, coi họ là không xứng đáng và luôn ra vẻ dạy cho họ những bài học. Đó chính là một hình thức bạo lực tinh vi [95]. Thánh Gioan Thánh Giá đã đề nghị một con đường khác: “Hãy luôn luôn thích được tất cả mọi người dạy mình, hơn là muốn dạy ngay cả những người bé nhỏ nhất trong mọi người” [96]. Và ngài thêm một lời khuyên để đuổi xa ma quỷ: “Hãy vui mừng coi những sự tốt đẹp của người khác như của chính mình, và mong rằng họ được ưu tiên hơn mình trong mọi sự; các chị phải hết lòng làm điều này. Như thế các chị sẽ chiến thắng sự dữ bằng việc lành, đánh đuổi quỷ dữ, và có được một con tim hạnh phúc. Hãy cố gắng thực hành điều này nhiều hơn nữa với những ai mà các chị cho là ít hấp dẫn nhất. Hãy nhận ra rằng nếu các chị không tự tập luyện theo cách này, các chị sẽ không đạt được đức ái thật sự hoặc tiến bộ trong nhân đức ấy” [97].
118. Khiêm tốn chỉ có thể bén rễ trong lòng qua các sỉ nhục. Không có chúng, thì không có sự khiêm tốn hay thánh thiện. Nếu anh chị em không thể chịu đựng và dâng lên một vài nhục nhã, thì anh chị em chưa khiêm tốn và anh chị em chưa phải đang trên con đường nên thánh. Sự thánh thiện mà Thiên Chúa ban cho Hội Thánh của Ngài đến qua sự nhục nhã của Con Ngài. Người là đường. Sự sỉ nhục làm cho anh chị em giống Chúa Giêsu; đó là một khía cạnh không thể tránh được của việc noi gương Đức Kitô. Vì “Ðức Kitô cũng đã chịu đau khổ vì anh em, để lại cho anh em một mẫu gương, ngõ hầu anh em có thể theo bước chân Người.” (1 Pr 2:21). Ngược lại, Người tỏ lộ sự khiêm tốn của Chúa Cha, Đấng đã xuống để hành trình với dân Ngài, chịu đựng sự bất trung và ta thán của họ (x. Xh 34:6-9; Kn 11:23-12: 2; Lc 6:36). Vì lý do này, mà các Tông Đồ, sau khi chịu sỉ nhục, đã vui mừng “là mình được kể như đáng chịu xỉ nhục vì danh [Chúa Giêsu]” (Cv 5:41).
119. Ở đây tôi không chỉ nói về những tình cảnh tột cùng về việc tử vì đạo, mà còn về những sự nhục nhã hàng ngày của những người giữ im lặng để cứu gia đình họ, những người muốn ca tụng người khác hơn là tự hào về chính mình hoặc những người chọn những công việc không được ai hoan nghênh, đôi khi thậm chí còn chọn chịu sự bất công để dâng lên Chúa. “Nếu khi anh em làm việc lành, mà bị đau khổ, và anh em kiên tâm chịu đựng, thì đó là hồng phúc trước mặt Thiên Chúa” (1 Pr 2:20). Điều này không có nghĩa là đi loanh quanh với cặp mắt nhìn xuống, không nói lời nào và chạy trốn xã hội. Đôi khi, chính vì một người không ích kỷ, họ có thể dám một cách ôn tồn bất đồng ý kiến, đòi hỏi công lý hoặc bảo vệ những kẻ yếu đuối trước mặt những người quyền thế, ngay cả khi nó có thể gây thiệt hại cho họ hoặc danh tiếng của họ.
120. Tôi không nói rằng sự sỉ nhục như vậy là dễ chịu, vì đó là chủ trương tự hành hạ mình, nhưng đây là một cách để noi gương Chúa Giêsu và lớn lên trong sự kết hợp với Người. Điều này không thể hiểu nổi trên một mức độ thuần túy tự nhiên, và thế gian chế diễu bất kỳ khái niệm nào như thế. Thay vào đó, đây là một ân sủng được tìm kiếm trong cầu nguyện: “Lạy Chúa, khi sự sỉ nhục đến, xin giúp con biết rằng con đang theo bước chân Chúa”.
121. Thái độ này bao hàm một con tim được bình an nhờ Đức Kitô, được giải thoát khỏi sự hung hăng phát sinh từ việc quá tự đại. Cũng một bình an ấy được đem đến bởi ân sủng, làm cho chúng ta có thể giữ được sự an toàn nội tâm và chịu đựng, cùng kiên trì trong sự tốt lành, “dù tôi đi qua thung lũng tối tăm của sự chết” (Tv 23:4) hoặc “Dù một đạo binh hạ trại chống lại tôi” (Tv 27:3). Đứng vững trong Chúa, Đá Tảng, chúng ta có thể hát: “ Trong bình an con ngả mình là ngủ kỹ, chỉ mình Ngài, lạy Chúa, làm đời con yên ổn.” (Tv 4:8). Tóm tắt một lời, Đức Kitô, “là bình an của chúng ta” (Eph 2:14); Người đã đến “để hướng dẫn ta bước chân vào nẻo bình an” (Lc 1:79). Như Người đã nói với Thánh Faustina Kowalska, “Loài người sẽ không có hòa bình cho đến khi họ quay lại tín thác vào lòng thương xót của Ta” [98]. Vì vậy, chúng ta đừng rơi vào cám dỗ tìm kiếm sự an toàn trong thành công, những thú vui vô bổ, sở hữu, quyền lực trên người khác hoặc địa vị xã hội. Chúa Giêsu phán rằng: “Thầy ban bình an cho các con, nhưng không như thế gian ban nó cho các con.” (Ga 14:27).
NIỀM VUI VÀ ĐẦU ÓC KHÔI HÀI
122. Những điều được nói ở trên không ám chỉ một tinh thần ngăn cấm, nhút nhát, đắng cay hoặc u sầu, hoặc có một vẻ mặt thê lương, các thánh vui tươi và có đầu óc khôi hài. Mặc dù hoàn toàn thực tế, các ngài tỏa ra tinh thần tích cực và đầy hy vọng. Cuộc đời Kitô hữu là cuộc đời “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Rom 14:17), vì “kết quả cần thiết của tình yêu bác ái là vui mừng; bởi vì mỗi người yêu đều vui mừng khi được kết hợp với người mình yêu ... ảnh hưởng của lòng bác ái là niềm vui” [99]. Khi nhận được hồng ân Lời Chúa tuyệt mỹ, chúng ta ôm chặt lấy Lời ấy “giữa bao gian khổ, với niềm vui của Chúa Thánh Thần” (1 Tx 1:6). Nếu chúng ta để cho Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái vỏ của mình và thay đổi cuộc sống của mình, thì chúng ta có thể làm như Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Hãy hãy luôn vui mừng trong Chúa. Tôi nhắc lại, hãy vui lên!” (Pl 4: 4).
123. Các ngôn sứ đã công bố thời đại của Chúa Giêsu, mà trong đó chúng ta hiện đang sống, như một mặc khải hân hoan. “Hãy reo hò và hát lên mừng rỡ!” (Is 12: 6). “Hãy trèo lên núi cao, hỡi người loan báo tin mừng cho Xion; Hãy cất cao giọng nói, hỡi người loan báo tin mừng cho Giêrusalem!” (Is 40:9). “Hỡi núi non hãy bật lên tiếng hát! Vì Chúa đã an ủi dân Người, và Người sẽ xót thương những kẻ đau khổ của mình” (Is 49:13). “Hỡi con gái Xion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi con gái Giêrusalem, hãy reo hò mừng rỡ! Kìa, Đức Vua của ngươi đang đến cùng ngươi; Đấng Công Chính và Toàn Thắng là Người” (Dc 9: 9). Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên của ông Nêhêmia: “Đừng buồn bã, vì niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em” (8:10).
124. Đức Mẹ Maria, khi nhận ra sự mới lạ mà Chúa Giêsu mang đến, đã hát lên: “Linh hồn tôi vui mừng” (Lc 1:47), và chính Chúa Giêsu “vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Lc 10:21). Khi Người đi ngang qua, “tất cả mọi người đều vui mừng” (Lc 13:17). Sau khi Phục Sinh, các môn đệ đi bất cứ nơi nào cũng đều “vui mừng” (Cv 8: 8). Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng: “Các con sẽ buồn rầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành vui mừng ... Thầy sẽ gặp lại các con, và lòng các con sẽ vui mừng, và sẽ chẳng ai lấy mất niềm vui khỏi các con được” (Ga 16: 20,22). “Thầy đã nói với các con những điều ấy, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15:11).
125. Có những lúc khó khăn, những thời gian của thập giá, nhưng không có gì có thể tiêu huỷ niềm vui siêu nhiên là niềm vui “thích nghi và thay đổi, nhưng luôn luôn tồn tại ít ra như một tia sáng phát xuất từ niềm tin tưởng riêng của chúng ta rằng trên hết mọi sự, chúng ta được [Thiên Chúa] yêu thương vô cùng” [100]. Niềm vui đó đem lại một sự an toàn nội tâm, một sự thanh thản đầy hy vọng cung cấp một sự no thoả tinh thần không thể hiểu được theo tiêu chuẩn thế gian.
126. Niềm vui Kitô giáo thường được đi kèm với tính hài hước. Điển hình như chúng ta thấy rõ điều này nơi Thánh Tôma More, Thánh Vincentê đệ Phaolô và Thánh Philipê đệ Neri. Khôi hài tục tĩu không phải là dấu chỉ của sự thánh thiện. “Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn anh em” (Gv 11:10). Chúng ta nhận được rất nhiều từ Chúa “để vui hưởng” (1 Tm 6:17), cho nên đôi khi buồn rầu có liên hệ với sự vô ơn của chúng ta, vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình nên không thể nhận ra hồng ân của Thiên Chúa [101].
127. Với tình yêu của một người Cha, Thiên Chúa mời gọi chúng ta: “Con ơi, hãy đối xử tốt với mình ... Đừng chối từ hưởng một ngày vui” (Hc 14:11,14). Ngài muốn chúng ta tích cực, biết ơn và không quá phức tạp: “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui vẻ ... Thiên Chúa đã tạo ra con người vốn ngay thẳng, nhưng họ đã toan tính nhiều điều” (Gv 7:14,29). Trong mọi hoàn cảnh, phải giữ một tinh thần linh động và bắt chước Thánh Phaolô: “Tôi đã học cách hài lòng với những gì tôi có” (Ph 4:11). Đó là cách Thánh Phanxicô Assisi sống; ngài có thể tràn ngập lòng biết ơn trước một mẩu bánh mì cứng ngắc, hoặc hân hoan chúc tụng Thiên Chúa chỉ vì một ngọn gió nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt ngài.
128. Tôi không nói về niềm vui tiêu thụ và cá nhân như đang hiện diện trong một số kinh nghiệm văn hoá ngày nay. Thực ra, chủ nghĩa tiêu thụ chẳng làm gì ngoài việc biến con tim thành nặng nề. Thỉnh thoảng nó có thể mang lại cho chúng ta những khoái lạc chóng qua, nhưng không phải là niềm vui. Ở đây, tôi nói đến niềm vui sống trong sự hiệp thông, là chia sẻ và tham gia, vì “cho đi thì có phúc hơn là nhận lại.” (Cv 20:35) và “Thiên Chúa yêu người vui vẻ cho đi” (2 Cr 9: 7). Tình yêu huynh đệ làm tăng khả năng vui mừng, vì nó làm cho chúng ta có khả năng vui vì lợi ích của người khác: “Hãy vui mừng với người vui mừng” (Rom 12: 15). “Chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu đuối và anh em mạnh mẽ” (2 Cr 13:9). Mặt khác, nếu chúng ta “chỉ biết nghĩ đến các nhu cầu của mình, chúng ta tự kết án mình bằng một cuộc sống ít hạnh phúc” [102].
(còn tiếp)