CUỘC ĐỜI CHÂN PHƯỚC CdF - Chương 4

Thứ hai - 08/05/2017 08:54
Việc trở lại của Charles de Foucauld có tính triệt để làm nên những vị thánh: « Ngay khi tôi tin có Thiên Chúa, thì tôi hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống cho Ngài. Ơn gọi tu trì của tôi nảy sinh cùng lúc với ơn đức tin của tôi. »
CHƯƠNG 4

ƠN GỌI TU TRÌ

 
           Việc  trở  lại của  Charles de  Foucauld có tính triệt để làm nên những vị thánh: « Ngay khi tôi  tin có Thiên  Chúa, thì tôi  hiểu  rằng tôi  không  thể  làm  gì  khác  hơn là chỉ sống  cho  Ngài. Ơn  gọi tu trì của tôi nảy sinh cùng lúc  với  ơn đức tin  của tôi. »
 
         Liền sau  đó,  theo  sự  hướng  dẫn của  Cha Huvelin, anh nghiệm thấy tình yêu thôi thúc anh phải bắt  chước Chúa  Giêsu. Anh bước theo ơn gọi tu trì từ chóp đỉnh,  không  phải  vì sợ sa  hỏa  ngục, cũng  không  phải  để được  lên  Thiên Đàng,  nhưng bởi vì lửa tình yêu tột độ phát xuất từ « Lòng bên lòng » với Chúa Giêsu thiêu đốt anh.

          « Đối với  kẻ thực tình yêu  mến Ta,  say  yêu Ta , - anh nói thay Chúa  Giêsu -. t tình yêu của Ta là  một sợi dây ràng  buộc  thánh,  một cuộc hôn  nhân,  và mọi tư tưởng,  mọi lời  nói, mọi  hành  động nghịch với đức  khiết tịnh  là  một sự bất trung với Vị Phu Quân…Cho nên  anh  hiểu  rằng  đức  đồng  trinh, đức khiết tịnh không  phải là  trạng thái của một  linh  hồn không kết  hôn,  trái lại đó là trạng thái của một  linh  hồn kết  hôn với một Vị Phu Quân rất đáng yêu, với  một Vị Phu Quân  hoàn hảo,  hoàn toàn  tốt đẹp, hoàn toàn  thánh thiện, hoàn  toàn  đáng  yêu…và  trạng thái  này là  trạng thái bình thường, thích đáng,  đích  thực, đối với  con người,  vì sự thật, sự công minh chính là  họ nhìn thấy Ta như Ta là,  họ  say  mê  vẻ đẹp của  Ta,  họ yêu mến Ta hết lòng, và họ dành cho Ta tất cả con tim của  họ đến nỗi mọi sự  kết hợp khác đều không thể chấp nhận,  là đáng  ghê tởm,  là một sự  thất  tín với tình  yêu say mê họ  dành cho Ta… » […]

          Khi thấy sự hăng say và tính triệt để của  người con  thiêng  liêng  của  mình,  lúc  đầu Cha  Huvelin không nhận ra nên ngài muốn anh kết  hôn. Nhưng Charles không  muốn nói đến chuyện ấy và chỉ nghĩ đến đời sống tu trì. Chính vì thế, Cha Huvelin đã khôn ngoan, thận trọng và từ từ hướng dẫn anh theo ơn gọi tu trì này. Thế là Cha Huvelin đề nghị anh nên đi hành  hương  qua Đất Thánh  để theo dấu chân  Chúa  Giêsu.

HÀNH  HƯƠNG  ĐẤT THÁNH
(Tháng 11/1888 – Tháng 1/1889)

        Mười ba  năm sau, anh viết  cho  bà Marie de Bondy rằng « Cực  chẳng  đã em phải  làm việc đó,  vì  hoàn  toàn vâng  lời  Cha Huvelin mà thôi ». Anh vâng  lời,  như anh sẽ  làm như  vậy suốt đời , và chính nhờ thế mà anh nhận được ơn mạc khải  của  Chúa Giêsu, chính nhờ thế mà anh nhận ra đặc sủng  thấu  hiểu đời sống của Chúa Giêsu khi sống 30 năm với cha mẹ thánh  của  Người, rồi 3 năm sau  đó với  các môn đệ của Người. Một sự  khám phá làm xáo trộn nhưng  sẽ là ánh sáng hướng dẫn tất cả đời sống  anh và gợi  hứng  cho toàn bộ cách  sống  của  anh. [..]

        « Sau  khi mừng lễ Noel 1888 tại Bêlem,  tham dự  Lễ  Đêm  và Rước Lễ  tại  hang đá , chừng hai hay  ba  ngày em trở  lại Jerusalem. Không thể tả được vị  dịu  ngọt  mà em đã  cảm  nhận khi cầu nguyện  trong  hang này, cái hang đã  dội lại tiếng  nói  của Chúa  Giêsu, Đức  Maria  và  Thánh  Giuse,  và là  nơi em được ở rất  gần các Đấng… Nhưng, than ôi ! sau  một  giờ đi bộ, mái vòm của thánh đường Mộ Chúa  Giêsu, Núi Sọ, Núi Cây Dầu  đứng  sững trước  mặt em, nên,  dầu  muốn  hay  không, người  ta  cũng phải thay  đổi  ý  nghĩ  và dừng  lại  dưới chân  Thánh  Giá. »

         Chính do hiệu quả của việc thấu hiểu Thánh Giá này mà vài ngày sau, ngày 10 tháng 01, Charles de Foucauld  mới hiểu được đời sống ẩn  dật của  Chúa  Giêsu  tại Nazareth là gì : một cuộc sống  đơn điệu.  tầm thường,  cơ cực.   Sự  khiêm  nhượng của  Chúa  Giêsu trên Núi Sọ  đã đánh động anh thế nào, thì cũng đã thể hiện cách mãnh  liệt như vậy nơi cuộc sống tại  Nazareth, và từ đó Charles de  Foucauld hình dung cuộc sống  ẩn  dật  như  một  đời sống « thấp  hèn » […]

        Charles trở về ; tâm hồn anh bị choáng  ngợp vì chuyến  hành  hương  này ; nó đã thật sự  là  khúc quanh của đời  anh.  Bắt đầu từ tháng 01 năm 1889, anh biết mình phải  bắt chước  Chúa  Giêsu  làm  sao : cuộc sống tại Nazareth hết sức đơn giản, khó nghèo và  khiêm hạ. Chính  lúc đó, nhờ  bà Marie de Bondy,  anh được ơn  gặp Chúa  Giêsu  trong Thánh  Tâm Người. […]

LÒNG SÙNG  KÍNH THÁNH  TÂM

    Khi bà chị họ của  anh giải thích  cho anh biết Chúa Giêsu đã trở thành Phu Quân của  linh  hồn  bà thế nào, dạy bà lướt thắng những cực nhọc để  yêu thương và thậm chí yêu thương chồng chị hết lòng , thì bà đã tỏ cho anh biết con tim nồng nàn  yêu mến Chúa Giêsu và  lòng sùng mộ của bà dối với Thánh Tâm Người là thế nào. Như vậy qua  tâm  hồn của  người chị  họ mà Charles mới hiểu thấu được mầu nhiệm tình yêu của Trái Tim Chúa  Giêsu  ;  Nơi đó, qua  bao  nhiêu thử  thách, anh đã tìm thấy hạnh phúc suốt đời.  Anh không ngớt tỏ lòng biết ơn bà  chị  họ của  anh :
 
         « Vâng, chúng  ta hãy  hy vọng  vào  lòng thương xót vô biên của Đấng mà chị đã giúp em nhận biết Thánh  Tâm Người » (ngày 7 tháng 4 năm 1890) 
         « Nhiều người khác, nhất là Cha Huvelin, đã có thể góp phần làm ích cho em trong nhiều sự,  nhưng về lòng mộ mến Thánh Tâm, thì nhờ ơn Chúa, em chỉ nhờ một mình chị, tuyệt đối một  mình chị và em chỉ mắc nợ chị mà thôi. »

         Ngày 6 tháng 6 năm 1889, anh  đến vương cung thánh đường Montmartre để tận hiến cho  Thánh Tâm Chúa Giêsu. Năm 1900, giữa lúc đang gặp một thất bại lớn, anh chọn khẩu hiệu « Giêsu – Tình Yêu « , và chọn Trái Tim và Thánh Giá làm  biểu  tượng, mang trên  ngực. […]

        Tình  yêu rất cao đẹp anh dành cho bà Marie de Bondy, anh « chuyển sang » qua Thánh  Tâm Chúa Giêsu.  Và dường  như  đối với anh,  yêu  tức  là  bắt chước, và   bắt  chước  tức  là  phục  vụ,  anh  muốn  biến  mình  nên  tất cả cho Chúa  Giêsu, ở  gần Người,  gần sát hơn mãi,  và  không  lìa bỏ Người nữa.

          Cha Huvelin  đã  dạy  cho anh biết  một tình yêu như  thế hệ  tại  điều gì :  đó là « đi xuống »,  cho  tới sự  khó  nhọc và  sự  khiêm  hạ,  để được ở với  Chúa Giêsu mãi  mãi.

         « Lạy Chúa , con không biết có linh hồn nào khi thấy Chúa nghèo mà vẫn có thể ung dung sống giàu sang ; nhưng phần con, dầu  thế  nào  đi nữa, con  không  thể quan niệm được tình  yêu mà  không có  nhu  cầu,  một  nhu  cầu cấp bách phải  sống phù hợp,  và  nên giống người mình yêu » […]

TÌM MỘT ĐAN VIỆN LÝ TƯỞNG

         Năm 1889 đó sẽ là năm cuối cùng anh  sống  giữa  đời. Anh dùng  thời gian đó để cầu  nguyện,  đang  khi vị  linh hướng của anh nắm lấy cơ hội để ấn định dòng tu cho anh gia nhập. 

        Ngày 19.08.1888,  anh viếng  thăm Dòng Trappe de  Fontgombault. Trong  vườn anh thấy một  đan sĩ  xi-tô, áo sống dơ nhớp, vá chằng vá chịt, đang  hái rau. Khi Charles đến cách thầy không xa,  ông thầy này cũng chẳng buồn ngước đầu lên xem những người khách tham quan này là ai.  Thấy vậy, Charles tự nhủ : đó là điều tôi tìm  kiếm.

        Vào  tháng 4 năm 1889, Cha gởi  anh  đi dự Lễ  Phục Sinh tại Solesmes. Cha Huvelin viết thư cho ngài Delatte, Viện phụ  đan viện :
         « Cha  rất đáng  kính,
        « Tử tước de Foucauld, người trao cho cha lá thư này là một cựu sĩ quan, là một du khách  gan dạ tại  Maroc,  một  người  hành  hương  sốt sắng  tại Đất Thánh,  một nhà qúi tộc hoàn  hảo, rất  là  đạo đức,  và yêu thích đời sống tu trì. […]

         Nhưng Charles không gặp ở đó con  đường  của  mình,  và các Cha dòng Biển đức  hướng anh vào Dòng Trappe.

        Giữa khoảng từ 20 và  30 tháng 10, Charles de Foucauld đến đan viện  Đức  Bà  Xuống  Tuyết.  Đan viện này  hấp dẫn Charles cách  rất  đặc biệt bởi vì nó nghèo quá cỡ và nó vừa mới thiết lập thêm đan viện Đức Bà Thánh Tâm,  ở Cheiklé, gần d’Akbès, bên Syrie . Tức khắc, anh nghĩ tới việc xin nhập đan viện mới nằm giữa xứ ngoại giáo, hết sức nghèo khổ và vô cùng nguy hiểm này, đó là tất cả điều anh tìm kiếm từ ân sủng đã lãnh nhận trên Đất Thánh, hầu gặp được ở đó một cuộc sống  phù hợp hơn với đời sống của Chúa Giêsu.

SỰ HY SINH TO LỚN

        Mùa  hè năm 1889, anh đã qua  một  tháng tại La Barre, tại gia đình bà  Bondy.  Anh theo họ đi lễ và rước lễ.  Đó là những  ngày ân sủng mà  sau này anh nhắc tới  trong các thư từ của anh. Đó là Thiên đàng  đối với anh, với  bà chị họ của  anh và các con của chị, với bà cô của  anh và với các bạn hữu vãng lai. Họ thật hạnh phúc. Một  buổi xế trưa,  họ thuê một  chiếc thuyền để  ngắm cảnh trên mặt hồ ...  Charles cảm  thấy vô cùng hạnh phúc, vì họ hoàn toàn hiểu nhau . Bỗng nhiên anh thấy chị Marie và con chị thật xinh đẹp ! Sau này anh giải thích rằng vẻ đẹp này đã làm anh say mê, bởi lẽ vẻ  đẹp này đã nói với  anh về Vẻ Đẹp của Thiên  Chúa.

           « Lạy Chúa, Chúa tốt lành biết bao vì đã tỏ cho con thấy vẻ  đẹp  của  Chúa  trong  các  tạo  vật ! Con thật có  lỗi  nếu con không dừng  lại  trong  giây  lát, và  nếu qua  bức  màn  này con  không thấy vẻ đẹp tuyệt vời của Chúa vì tình yêu đã tỏa xuống trên con, trên các linh hồn  khác,  một  tia sáng tốt đẹp của  Chúa trên  mặt đất […]

           Và khi những ngày êm dịu  này trong gia đình qua đi như vậy, Charles de  Foucauld  rất  là  hạnh phúc đến nỗi anh khấn hứa với Chúa về điều đối với  anh là hy sinh lớn nhất có thể : đó là từ  bỏ  nó với lời  hứa 1à không bao giờ tìm gặp lại nó dưới đất này nữa. Và anh đã giữ lời hứa.
Ngày 15 tháng Giêng 1890,  Charles từ giã người chị anh yêu  mến  nhất  trên  đời.  Họ đã sắp  đặt  trước về sự ra đi này,  như là một nghi thức phụng vụ.

          Sáng sớm, họ đi tới  nhà thờ  Thánh Augustin, rước lễ tại bàn thờ Đức Mẹ, nơi anh đã được rước Chúa Giêsu lần đầu tiên, ngày anh trở lại. Họ trở về nhà . Buổi xế anh từ  giả chị để đi thăm Cha Huvelin đang bịnh, nhận lãnh phép lành cuối cùng của ngài : anh đã dốc quyết không bao giờ trở lại đây nữa.

        Hàng  năm, mãi cho tới cuối đời,  anh trung thành cử hành ngày này, cảm thấy cũng một sự đau  khổ. Biết bao lần anh trở lại đó !  Sự đau khổ dưới  đất  này làm cho anh ước muốn được sum  hợp trên Trời. Và chính sự việc đó là  điều đáng  phục nơi anh : sự từ bỏ không  bao  giờ làm  khô  kiệt con  tim ;  trái lại nó giúp cho tình yêu thăng tiến.  Nhưng nhờ một tình yêu đã được hoàn toàn siêu nhiên hóa, và sẽ  trở  thành nguồn ân sủng vô tận cho tất cả những ai sống bên anh và yêu thương  anh. Anh đáp chuyến tàu lửa đêm đi tới Đan viện Đức Bà Xuống Tuyết : anh đã  rũ bỏ  mọi sự  anh yêu  mến.  Anh đã bỏ cha mẹ : gia đình và quân đội.

            Vài tháng sau anh tự bào chữa với  ông  bạn Duveyrier :
            « … « Tại sao  tôi  vào dòng Trappe ? đó là điều mà anh yêu cầu tôi giải thích nhân danh tình bạn chí thân.  Thưa vì tình yêu,  hoàn toàn vì  tình yêu. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã sống nghèo, lao động,  ăn chay,  không có  tiếng  tăm và bị coi  thường, như người thợ rốt  hết,  ngài đã qua nhiều ngày đêm cô dộc trong sa mạc; tôi yêu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng  ta,  dẫu bằng một con tim vẫn luôn muốn yêu Ngài mỗi ngày một hơn, nhưng cuối cùng tôi yêu Ngài, và tôi không thể chịu đựng sống một cuộc sống khác với Cuộc Sống của  Ngài, một cuộc sống êm ái và được trọng vọng trong khi Ngài đã sống một cuộc đởi khổ cực và bị  khinh  bỉ  hơn bao  giờ hết… Tôi  không  muốn trải qua cuộc sống  hạng nhất đang  khi Đấng tôi yêu ở hạng chót… Hy sinh  lớn  nhất đối với tôi, lớn đến nỗi tất cả  những  hi sinh  khác  xung quanh nó đều không có và trở  thành hư không,  đó là sự  xa cách mãi mãi với  một gia đình tôi thiết tha yêu mến và với các bạn hữu không nhiều nhưng tôi tha thiết gắn bó :  những người bạn chí thân chỉ có khoảng 4,5 người,  mà anh là một trong số những người bạn đầu tiên của tôi : đó là nói cho anh biết tôi đau đớn biết chừng nào khi  nghĩ rằng tôi  không bao  giờ thấy anh nữa… »

 
Trích  CRC số 329 - tháng  01/ 1997, tr.24-28

Tác giả: thtscgs

Nguồn tin: CRC

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây