Thư chung số 98 - 11/2018

Thứ năm - 01/11/2018 10:18
Thư chung số 98 - Tháng 11/2018
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 98 / Năm VIII
                     * * *                                         
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 11/ 2018
-------------  
THÔNG ĐIỆP “ LAUDATO SÍ “
CHƯƠNG V : VÀI NÉT CHO ĐỊNH HƯỚNG VÀ HOẠT ĐỘNG (1)
 
Phan Rang, ngày 20.10. 2018

Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
         
Anh Hai thân ái gửi lời chào và phúc lành bình an của Chúa Giêsu ở cùng tất cả anh chị em.

Chúng ta tiếp tục đọc và tìm hiểu Chương V của Thông điệp “Laudato Sí”. Chương này có 39 số (từ số 163 đến số 201).  Tháng này chúng ta sẽ tìm hiểu phần 1 của chương này (163-188).  
 
Tóm lược : Chương này đề cập đến câu hỏi: chúng ta có thể và phải làm gì? Nếu chỉ phân tích mà thôi thì không thể đủ: còn cần phải có những đề nghị ”đối thoại và hành động đòi có sự can dự của mỗi người chúng ta, cũng như của nền chính trị quốc tế nữa” (15) và ”giúp chúng ta ra khỏi cái vòng lẩn quẩn tự hủy diệt mà chúng ta đang phải đương đầu” (163). Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một điều không thể loại bỏ, đó là làm sao để việc xây dựng những hành trình cụ thể không được cứu xét như một ý thức hệ, hời hợt hoặc thu hẹp. Vì thế một điều không thể thiếu, đó là đối thoại, một từ luôn đặc nhắc đến trong mỗi phần của chương IV này: ”Có những cuộc thảo luận, về những vấn đề liên quan đến môi trường, trong đó thật là khó đạt tới một sự đồng thuận. [....], Giáo Hội không chủ trương giải quyết các vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng tôi mời gọi thảo luận chân thành và minh bạch, để những nhu cầu đặc thù hoặc các ý thức hệ không làm thương tổn công ích” (188).
 
 Trên căn bản đó, Đức Giáo Hoàng Phanxico không sợ đưa ra một phán đoán nghiêm khắc về những hoạt động quốc tế gần đây: ”Các hội nghị thượng đỉnh thế giới về môi trường trong những năm gần đây không đáp ứng các mong đợi, vì thiếu quyết định chính trị, chúng không đạt tới các hiệp định môi trường hoàn cầu thực sự có ý nghĩa và hữu hiệu” (166). Và ngài tự hỏi: ”tại sao ngày nay người ta muốn duy trì một quyền bính sẽ được nhắc đến trong tương lai là không có khả năng can thiệp khi cấp thiết và cần phải hành động?” (57). Trái lại - như các vị Giáo Hoàng đã nhiều lần lập lại kể từ Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”, cần có những hình thức và dụng cụ hữu hiệu để quản trị thế giới” (175): ”Chúng ta cần một hiệp định về các chế độ quản trị cho toàn thể những gì gọi là công ích của thế giới” (174), xét vì ”sự bảo vệ môi trường không thể được bảo đảm dựa trên tính toán tài chánh về phí tổn và lợi lộc mà thôi. Môi trường là một trong những thiện ích mà các cơ cấu thị trường không có khả năng bảo vệ hoặc thăng tiến một cách thích hợp” (190, trích dẫn Sách Toát yếu đạo lý xã hội của Hội Thánh).
 
CHƯƠNG V
VÀI NÉT CHO ĐỊNH HƯỚNG VÀ HOẠT ĐỘNG (1)
 
163. Tôi tìm cách để phân tích hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, và biết bao sự đổ vỡ có thể quan sát trên hành tinh chúng ta đang trú ngụ, và những nguyên nhân sâu xa do con người đưa đến việc tàn phá môi trường. Dù việc quan sát thực tế này cho chúng ta thấy sự cần thiết phải thay đổi định hướng, và gợi lên cho chúng ta một số hành động, chúng ta hãy cố vạch ra những đường nét chính của đối thoại, ngõ hầu có thể bước ra khỏi vòng xoáy của việc tự huỷ hoại chính mình mà chính chúng ta đang chết dí trong đó.
 
I. CUỘC ĐỐI THOẠI VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG CHÍNH TRỊ TOÀN CẦU

164. Từ giữa thế kỷ cuối cùng và sau những vượt thắng nhiều khó khăn, người ta càng ngày càng ý thức, hành tinh này như quê hương và nhân loại là một dân cùng trú ngụ trong một ngôi nhà chung. Một thế giới phụ thuộc lẫn nhau không những phải nắm vững những hệ quả tai hại của cách sống, cách sản xuất và thái độ tiêu thụ… đều ảnh hưởng đến tất cả mọi người, nhưng nhất là phải lo sao để đề ra được những cách giải quyết có tầm mức toàn cầu chứ không phải chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cho vài quốc gia. Sự phụ thuộc lẫn nhau buộc chúng ta phải nghĩ đến một thế giới duy nhất, một chương trình chung với nhau. Cũng như tài năng khôn ngoan được sử dụng cho sự phát triển kỹ thuật lớn lao, cũng khó tìm được những hình thức hữu hiệu cho việc quản lý toàn cầu, để giải quyết các vấn đề khó khăn của môi trường và xã hội. Để đối mặt với các vấn đề nền tảng không thể giải quyết dựa theo các hoạt động của từng đất nước đơn độc, cần phải có một sự đồng thuận toàn cầu, ví dụ như, đưa ra một chương trình nông nghiệp lâu dài và đa dạng, triển khai những hình thức sử dụng năng lượng có thể tái tạo và ít ô nhiễm, đòi buộc có một cách sản xuất năng lượng thích hợp hơn, cố gắng quản lý các tài nguyên của rừng, của biển và bảo đảm nước uống cho mọi người.

165. Chúng ta biết, khoa học kỹ thuật dựa trên việc đốt cháy các quặng mỏ, làm ô nhiễm môi trường thật nhiều – nhất là than đá, cũng có dầu mỏ và một lượng ít hơn là khí đốt – cần phải thay đổi tiệm tiến và không thể chờ đợi được nữa. Bao lâu chưa tìm được cách phát triển những năng lượng có thể tái chế, thì được phép lựa chọn điều ít xấu hơn hoặc phải lấy lại những giải pháp chuyển tiếp. Dù vậy, trong cộng đồng toàn cầu, khó mà đi đến sự hợp nhất tương đối về trách nhiệm của những người phải gánh lấy giá thành của việc chuyển tải năng lượng. Vào những thập niên cuối, những vấn đề về môi trường đã đưa đến nhiều cuộc tranh luận công khai, đã tạo nên trong cộng đồng xã hội những không gian cho một quyết tâm mạnh mẽ và một cuộc dấn thân quảng đại. Chính trị và doanh nghiệp phản ứng thật chậm, thật xa vời với những đòi hỏi toàn cầu. Theo nghĩa này, người ta có thể nói: trong khi nhận loại sống trong thời hậu kỹ nghệ, có lẽ là một thời đại lịch sử vô trách nhiệm, người ta hy vọng rằng nhân loại vào đầu thế kỷ XXI có thể vẫn nhớ, để có thể đón nhận trách nhiệm khó khăn này với tấm lòng quảng đại.
166. Phong trào sinh thái đã có một quá trình lâu dài, được nhiều tổ chức xã hội nỗ lực bồi đắp. Khó mà kể hết các tổ chức này, cũng như ghi lại lịch sử đóng góp của họ. Nhưng nhờ vào một sự dấn thân mạnh mẽ mà những vấn đề môi sinh càng ngày càng được phổ biến trên các trang tin tức và luôn luôn trở thành một lời mời để suy nghĩ lâu dài. Dù vậy, những cuộc gặp gỡ trao đổi về môi trường toàn cầu của năm cuối cùng không đáp ứng được nguyện vọng, vì thiếu quyết định chính trị, nên không đạt được thoả thuận có ý nghĩa, có thể đem lại nhiều hiệu quả về môi trường.
167. Chỉ cần nêu lên Hội Nghị Về Trái Đất tại Rio de Janeiro vào năm 1992. Hội nghị công bố: “Nhân loại đang đứng ngay trung tâm những cố gắng cho một cuộc phát triển lâu dài” [126]. Liên kết với nội dung các tuyên bố tại Stockholm (1972), hội nghị đã phát biểu cách long trọng về việc cộng tác toàn cầu, để chăm sóc cho hệ thống môi sinh trên toàn trái đất, về trách nhiệm đóng góp tài chính của những người gây nên việc ô nhiễm môi trường ; về trách nhiệm phải khảo sát tác động vào mội trường của từng công trình và dự án. Hội nghị đề xuất phải xác định sự tập trung cao độ của việc phun khí thải vào trong bầu khí quyển, hầu giảm bớt việc nóng dần lên của bầu khí quyển. Hội nghị cũng tạo ra một nhật ký với một chương trình hành động và một sự đồng thuận về sự khác biệt sinh thái cũng như tuyên bố những nguyên tắc về rừng rậm. Dù hội nghị đạt được mọi sự mong đợi và trong thời gian đó mang một tính chất tiên tri, các thoả thuận cũng ít được đem ra thực hiện, chỉ vì không có guồng máy nào thích hợp để kiểm soát, đánh giá từng giai đoạn và xử lý những hành động vi phạm. Các nguyên tắc đề ra cần có những phương tiện vừa nhẹ nhàng, vừa hiệu quả, để đem ra thực hiện cụ thể.

168. Giữa các kinh nghiệm tích cực, người ta có thể kể, tỉ như, khế ước Bâle về các thứ rác thải nguy hiểm với một hệ thống thông báo, luật tiêu chuẩn và kiểm soát ; cũng như người ta nói đến khế ước về việc buôn bán trên toàn cầu, về các động vật và thực vật đang bị đe doạ tuyệt chủng, cùng với trách nhiệm phải tôn trọng có hiệu quả. Cám ơn sự thoả thuận ở Vienne về việc bảo vệ tầng ozon và bắt đầu được thực hiện qua bản báo cáo ở Montréal và nhờ các điều chỉnh, xem ra người ta cố gắng giải quyết vấn đề tầng khí quyển này đang bị giảm bớt.

169. Những tiến bộ về mặt bảo vệ sự đa dạng sinh học và việc hoang mạc hoá, xem ra không có bao nhiêu. Những tiến bộ về mặt biến đổi khí hậu lại càng ít hơn nữa. Việc giảm bớt khí thải đòi hỏi sự minh bạch, can đảm và trách nhiệm của các nước gây ô nhiễm nhiều và mạnh mẽ nhất cho môi trường. Hội nghị tại Hiệp Chủng Quốc về việc phát triển lâu dài, được gọi là Rio + 20 (Rio de Janeiro 2012), đã đưa ra một tuyên bố bế mạc dài và không có hiệu quả. Việc trao đổi quốc tế không có bước tiến tốt đẹp nào cả, vì họ đặt quyền lợi quốc gia lên trên công ích. Những người phải đau khổ vì hậu quả mà chúng ta cố gắng che đậy, đều nhớ đến việc thiếu lương tâm và trách nhiệm. Trong khi thông điệp này được soạn thảo thì cuộc tranh luận đã được chú tâm cách đặc biệt. Chúng ta, những người tin, không được phép dừng việc khẩn cầu Thiên Chúa, để có những bước tiến tích cực trong các cuộc thảo luận hiện hành, để các thế hệ tương lai không phải đau khổ vì những hệ luận chậm trễ thật bất công.

170. Một vài chiến thuật cho việc loại bỏ những khí gây ô nhiễm môi trường, tìm cách quốc tế hoá các giá trị môi sinh đang gặp nguy hiểm vì áp đặt lên các nước có ít tài nguyên, những trách nhiệm nặng nề để thu hẹp lại việc thải khí gây ô nhiễm, so với những nước phát triển công nghiệp hơn. Việc áp đặt những gánh nặng trên các nước, cần được phát triển nhiều hơn. Theo cách này, đó là môt sự bất công dưới chiêu bài bảo vệ môi sinh. Điều này luôn xảy ra cho những nước yếu kém nhất. Phải chấp nhận rằng, hậu quả của việc biến đổi khí hậu đã được cảm nhận từ lâu, hiện tại mức độ lại quá cao, một số quốc gia có ít tài nguyên, cần sự giúp đỡ, để có thể thích ứng với các hậu quả đã xuất hiện và gây tai hại cho nền kinh tế của họ. Trước cũng như sau, phải có những trách nhiệm chung, nhưng rất khác biệt, như các Đức Giám Mục Bolivia đã nói: “Các nước được hưởng lợi với mức độ công nghiệp cao hơn, do việc thải khí gây hiện tượng nhà kín, phải có trách nhiệm nhiều hơn, để giải quyết vấn đề mà chính họ đã gây nên” [127].

171. Chiến thuật của mua và bán “chứng chỉ khí thải” có thể trở thành cái cớ cho một hình thức tự biện, và điều này không thể sử dụng để đúc kết việc thải khí độc hại của toàn cầu. Hệ thống này xem ra là cách giải quyết nhanh gọn và dễ dàng, dưới vỏ bọc của một sự dấn thân nào đó cho môi trường, nhưng không đưa ra một cách thức nào cho sự thay đổi triệt để do hoàn cảnh đưa đến. Ngược lại, nó có thể xoay sở, làm quên đi điều chính yếu, và cho phép nâng đỡ lượng quá tải của những quốc gia và các vùng.

172. Những nước nghèo cần phải loại trừ các đau khổ và ưu tiên cho một sự phát triển xã hội cho dân chúng. Họ cần phải phân tích mức độ tiêu thụ quá đáng của những nhóm ưu đãi và kiểm soát tốt hơn sự huỷ hoại. Thật sự, họ phải triển khai những hình thức ít ô nhiễm hơn về mặt sản xuất năng lượng, nhưng để đạt được họ phải dựa vào sự trợ giúp của những nước đã có sự phát triển mạnh mẽ, đối mặt với ô nhiễm hiện tại của hành tinh. Việc sử dụng trực tiếp năng lượng mặt trời cách phong phú, cũng cần đến máy móc và sự hỗ trợ, để các nước phát triển có thể nhận được kỹ thuật, các người trợ lý kỹ thuật và tài chánh, nhưng phải luôn luôn chú ý đến những điều kiện cụ thể, vì “cơ sở hạ tầng không phải luôn luôn thích hợp với những gì người ta quy hoạch” [128]. Giá thành sẽ bớt đi, nếu người ta so sánh với những nguy hiểm của việc biến đổi khí hậu. Nhưng trước tiên vẫn là một quyết định luân lý, dựa trên tình liên đới giữa các dân tộc.

173. Vì những yêu cầu của địa phương thường rất yếu để có thể can thiệp cách hữu hiệu nên để thay đổi, cần có những sự đồng thuận quốc tế. Liên hệ giữa các quốc gia phải tôn trọng chủ quyền của mỗi nước, nhưng phải cùng nhau xác định con đường được thảo thuận, để có thể loại bỏ tai hoạ ở địa phương, bởi tai hoạ này cuối cùng cũng sẽ ảnh hưởng đến tất cả quốc gia khác. Vẫn còn thiếu những quy định chung đề ra trách nhiệm và ngăn chặn những hành động không thể chấp nhận, tỉ như các quốc gia có quyền lực đem vào những nước khác các rác thải và công nghệ độc hại cho môi trường.

174. Cũng phải cảnh báo về hệ thống quản lý các đại dương. Cho dù đã có những thoả thuận quốc tế hoặc địa phương, nhưng do sự phân tán và thiếu bộ máy kiểm soát nghiêm khắc để đưa ra những quy định và phê chuẩn, cuối cùng làm mất đi mọi cố gắng. Vấn đề gia tăng rác thải vào trong biển và việc bảo vệ các vùng biển vượt quá biên giới quốc tế, đã đưa ra một thách đố đặc biệt. Cuối cùng, chúng ta cần đạt tới một sự thỏa thuận về quy định trật tự và cơ cấu chính trị cho toàn bộ điều được gọi là “công ích toàn cầu” [globalen Gemeinwohls – biens communs globaux]

175. Cùng một lý luận như thế, cũng rất khó để có được quyết định nghiêm khắc cho việc thay đổi xu hướng về việc hâm nóng trái đất, và cũng khó đạt tới việc thực hiện mục đích là đẩy lui nghèo khó. Chúng ta cần một phản ứng có trách nhiệm toàn cầu, vừa thu hẹp lại việc ô nhiễm môi trường, vừa chú tâm đến việc phát triển các quốc gia cũng như các vùng nghèo. Bước vào thế kỷ XXI mà người ta vẫn giữ hệ thống cai quản của thời quá khứ, đó là sân khấu cho việc tiến lên của các quốc gia nắm quyền lực, nhất là về mặt kinh tế và tài chính mang hướng liên quốc gia, khống chế cả chính trị. Trong hoàn cảnh này, phải phát huy những cơ quan quốc tế vừa mạnh mẽ vừa có hiệu lực và có quyền lực thưởng phạt. Cũng theo chiều hướng này mà Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội được triển khai, như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh: “Để hướng dẫn nền kinh tế thế giới, để chữa lành những nền kinh tế đang gặp cơn khủng hoảng, đế báo trước sự trầm trọng đưa tới sự bất bình đẳng, để thực hiện việc giải giới trọn vẹn, để đạt được sự bảo đảm về mặt lương thực và hoà bình, để bảo vệ môi trường và ngăn chặn làn sóng di tản, cần phải có một thẩm quyền chính trị toàn cầu [politischen Weltautoritãt – Autorité politique mondiale] như Đấng tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói.” [129]. Trong viễn cảnh này, các bộ ngoại giao mang nhiều ý nghĩa tròn đầy để vận động các chiến lược toàn cầu hầu giải quyết các vấn đề trầm trọng nhất, gây tác hại cho mọi người.
 
II. CUỘC ĐỐI THOẠI VỀ QUAN NIỆM CHÍNH TRỊ MỚI
THUỘC QUỐC GIA VÀ ĐỊA PHƯƠNG

176. Đương nhiên vẫn luôn có kẻ thắng người thua trong các nước khác nhau, nhưng ngay giữa các nước nghèo, phải nhìn nhận có nhiều trách nhiệm khác nhau. Vì thế, những vấn đề môi trường và phát triển kinh tế, không thể chỉ đặt từ sự khác biệt giữa các nước, nhưng đòi buộc người ta phải chú ý đến chính trị quốc gia và địa phương.

177. Đối mặt với việc có thể sử dụng vô trách nhiệm của khả năng con người, phận vụ tất yếu của mỗi nhà nước là phải đưa ra chương trình cho chính địa phương của mình, phối hợp, kiểm soát và xử phạt. Làm thế nào một xã hội có thể chuẩn bị và bảo vệ tương lai của mình trong một bối cảnh có nhiều đổi mới kỹ thuật? Quyền thiết đặt các luật lệ cho những thái độ có thể chấp nhận dựa theo công ích, là một động lực tác động vào sự điều hành quan trọng. Các ranh giới mà một xã hội lành mạnh, trưởng thành và quyền lực, phải gắn liền với các dự đoán, quy định luật lệ cách điều độ, kiểm soát việc áp dụng các chỉ thị, chống lại việc sa đoạ, hành động kiểm soát hữu hiệu của những hậu quả không lường trước trong tiến trình sản xuất và tác động có mục đích khi phải đối diện với các thách đố có thể xảy ra. Việc ban bố luật lệ có gia tăng, nhưng phải nhằm làm giảm bớt các hậu quả việc gây ô nhiễm do hoạt động của các doanh nghiệp. Phạm vi chính trị và cơ chế không chỉ hiện hữu để tránh các hành vi xấu, nhưng còn để động viên các hành động tốt, kích thích sự sáng tạo để tìm những con đường mới, để tạo điều kiện dễ dàng cho các sáng kiến cá nhân hoặc tập thể.

178. Bi kịch của chương trình chính trị “nhanh chóng” [“immédiateté” politique] được các nhóm tiêu thụ ủng hộ, đưa đến sự cần thiết để gia tăng thật nhanh. Đáp ứng các lợi ích cho việc bầu chọn, các chính quyền không dễ dàng chấp nhận điều nguy hiểm làm phật lòng dân chúng, gây tổn thất cho mức độ tiêu thụ hoặc có thể gây nguy hiểm cho việc đầu tư của ngoại quốc. Cái nhìn thiển cận trong việc xây dựng quyền lực làm chậm lại việc đón nhận một chương trình với viễn cảnh rộng lớn trong nghị trình công khai của chính quyền. Người ta quên rằng “thời gian có giá trị hơn là không gian” [130]; rằng chúng ta sẽ giàu sang hơn, khi chú tâm giải quyết các tiến trình hơn là thống trị không gian quyền lực. Sự vĩ đại của chính trị cho thấy rõ, trong những hoàn cảnh khó khăn, người ta sẽ hành động theo những nguyên tắc mang ý nghĩa và cùng lúc suy nghĩ về công ích lâu dài. Rất khó cho quyền lực chính trị khi phải đảm nhận trách nhiệm này trong một dự án quốc gia.

179. Trong một số vùng đã phát triển những tổ hợp tác xã cho việc sử dụng các năng lượng có thể tái sinh, có khả năng tự quản và bán ra các sản phẩm dư thừa. Ví dụ đơn sơ này cho thấy: trong khi trật tự hiện hành của thế giới không có khả năng để nhận trách nhiệm, thì cơ quan địa phương có thể tạo một điều khác biệt. Chỉ vì nơi đó, người ta đã suy nghĩ về điều họ sẽ để lại cho con cái cháu chắt, từ đó, họ có một trách nhiệm lớn, một ý nghĩa cộng đồng mạnh mẽ, một khả năng đặc biệt để tiên đoán, một sự sáng tạo nhiệt tình và một tình yêu chân thật cho đất nước họ. Những giá trị này bắt nguồn từ việc dân chúng hợp nhất với nhau. Sau khi nhận thấy luật pháp đôi khi không đủ mạnh để loại sự huỷ hoại, vì thế cần có quyết định chính trị do áp lực của quần chúng. Xã hội, ngang qua các cơ quan không thuộc chính quyền và các hiệp hội trung gian, phải buộc chính quyền triển khai các luật lệ, thủ tục và kiểm soát gắt gao hơn. Khi công dân không kiểm soát quyền lực quốc gia, địa phương và thôn xóm, thì cũng không thể có việc kiểm soát các tai hoạ gây ra cho môi trường. Mặt khác, các lề luật của cộng đồng sẽ hữu hiệu hơn, nếu như có sự đồng thuận giữa dân chúng, để nâng đỡ các chính trị gia có lưu tâm đến môi trường.

180. Người ta không thể tưởng tượng đến các đề nghị đồng thuận, vì mỗi quốc gia hoặc các vùng đều có những vấn đề và ranh giới đặc biệt. Thật vậy, thực tế chính trị có thể đòi hỏi những mức độ và kỹ thuật chuyển tiếp, dưới điều kiện chúng phải luôn luôn đồng hành với dự án và sự chuẩn nhận trách nhiệm của các bên ký kết. Nhưng trên bình diện quốc gia và địa phương có quá nhiều việc để thực hiện, tỉ như trên lãnh vực đòi hỏi các hình thức kinh tế về năng lượng. Điều này cũng tạo điều kiện cho những cách thức sản xuất kỹ nghệ có một hiệu quả cao độ về năng lượng, và ít sử dụng các chất liệu thô, nhận từ thị trường các sản phẩm không có nhiều hiệu quả về năng lượng, hoặc gây nhiều ảnh hưởng cho môi trường. Chúng ta cũng ghi nhận một sự kiểm soát tốt đẹp về giao thông hoặc các hình thức xây dựng và thông thoáng các cao ốc, qua đó có thể rút bớt việc sử dụng năng lượng và mức độ ô nhiễm. Mặt khác, hoạt động chính trị địa phương có thể hoạt động để điều tiết sự tiêu thụ, phát triển kinh tế tái định giá, chú tâm bảo vệ các giống loài và đặt chương trình cho nông nghiệp đa dạng với việc thay đổi các hoa trái. Cũng có khả năng làm tốt lên các vùng nông nghiệp của các nơi nghèo khổ nhờ đầu tư vào các cơ sở hạ tầng của nông nghiệp, trong cách tổ chức thị trường địa phương hoặc quốc gia, trong việc đặt hệ thống cung cấp nước, trong việc phát triển kỹ thuật nông nghiệp lâu dài và nhiều điều khác. Người ta có thể tạo thuận lợi cho việc cộng tác chung hay các tổ chức cộng đồng, là những nhóm bảo vệ lợi ích của những nhà sản xuất nhỏ và bảo đảm hệ thống sinh thái địa phương. Có rất nhiều điều người ta có thể làm.
181. Dù chính quyền tương đối có thể thay đổi, nhưng chính trị về việc thay đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, vẫn phải tiếp tục. Các kết quả đòi hỏi nhiều thời gian và phải nêu giá cả trực tiếp với các hiệu quả mà trong thời gian cai trị của chính quyền không thể minh chứng được. Vì thế, không cần can thiệp vào sự đè nén của quần chúng và của các cơ chế, nhưng luôn luôn có sự chống đối, và còn nhiều hơn nữa, khi cần phải giải quyết những trường hợp khẩn cấp. Nếu một chính trị gia nhận những trách nhiệm này với những giá phải trả, sẽ không thích ứng với lý lẽ hiệu quả và trực tiếp về mặt kinh tế cũng như nền chính trị hiện hành, nhưng nếu ông làm, ông sẽ nhận lại được phẩm giá của mình, do chính Thiên Chúa ban cho ông là con người và trên con đường của ông qua lịch sử, ông đã để lại dấu chứng một trách nhiệm lớn của ông. Phải đưa ra quyền ưu tiên cho một chính trị kiên vững, sẽ canh tân các tổ chức và kết hợp chúng lại và công nhận các thực hành tốt đẹp không gây áp lực và khó khăn. Cần phải thêm, các bộ máy tốt cuối cùng cũng phải đào thải vì thiếu những mục đích lớn, các giá trị và quan niệm nhân bản, mà mỗi cộng đồng phải có một định hướng quý giá và quảng đại.
 
III. ĐỐI THOẠI VÀ MINH BẠCH TRONG CÁC TIẾN TRÌNH QUYẾT ĐỊNH

182. Việc tiền dự tác động vào môi trường của các doanh nghiệp và dự án đòi buộc tiến trình chính trị rõ ràng và lệ thuộc vào đối thoại, trong khi sự huỷ hoại ẩn kín sự tàn phá môi trường của một dự án do thoả thuận, thường đưa đến đồng thuận âm thầm, qua đó người ta tránh đưa ra những thông tin và những cuộc tranh luận rộng rãi.

183. Một sự tìm hiểu tác động vào môi trường không thể nằm trong kết luận của sự kiến tạo một dự án sản xuất hoặc bất cứ động cơ chính trị nào, một quy hoạch hay chương trình thực hiện. Việc tìm hiểu này phải có ngay từ đầu và tìm hiểu trên nhiều bình diện, rõ ràng và độc lập khỏi mọi áp lực kinh tế hoặc chính trị. Việc tìm hiểu này phải liên kết với việc phân tích các điều kiện lao động và những hậu quả khả thể – tỉ như trên sức khỏe thể lý và tinh thần của con người, trên kinh tế địa phương, trên sự an toàn. Những kết luận kinh tế có thể đúc kết thật cụ thể dựa vào những kết quả kinh tế, trong đó người ta có thể nhìn từng kịch bản khả thể và tiên liệu sự cần thiết một sự đầu tư lớn hơn để đối mặt với các hậu quả bất ngờ có thể sửa sai được. Luôn luôn cần đến sự đồng thuận của nhiều tác nhân xã hội, có thể đưa ra những viễn cảnh, những giải đáp và những thay đổi khác nhau. Nhưng trên bàn thảo luận, cần phải có một vị trí ưu tiên cho dân chúng địa phương; họ sẽ tự hỏi điều họ mong muốn cho chính mình và con cái họ, họ có thể nhắm vào các mục tiêu vượt quá lợi ích kinh tế hiện tại. Người ta phải bỏ đi ý tưởng “can thiệp” vào môi trường, để kiến tạo những thứ chính trị được đón nhận và bàn thảo do những thành phần tìm thấy lợi ích. Việc tham gia đòi buộc tất cả mọi người đều được thông tin thích hợp cũng như về các nguy cơ cũng như khả thể ; việc tham gia không thể đúc kết trong quyết định thực hiện một dự án, nhưng cần có những hành động tiếp theo và kiểm soát liên tục. Sự thành thật và chân lý cần thiết trong tất cả các cuộc tranh luận khoa học và chính trị, chứ không chỉ hạn hẹp vào điều luật pháp cho phép hay không.
184. Nếu có những bất trắc xuất hiện cho môi trường, có thể ảnh hưởng đến công ích hiện tại hoặc tương lai, hoàn cảnh như vậy, “đòi buộc mọi quyết định dựa vào nền tảng đối mặt giữa nguy hiểm và lợi ích có thể thấy được trong từng lựa chọn” [131]. Điều này có giá trị, khi một dự án có thể kéo theo việc gia tăng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, gia tăng sự phát tán hoặc sản xuất nhiều rác thải, đưa đến một sự sa sút, một sự thay đổi có ý nghĩa cho đồng ruộng, gây tai hại cho không gian sinh sống của nhiều giống loài hoặc một không gian công cộng. Những dự án không được phân tích đầy đủ có thể gây hại cho phẩm chất sống của một địa phương dựa vào những vấn đề khác biệt, tỉ như gây ồn ào, ngăn chặn tầm nhìn, đánh mất giá trị văn hoá, hậu quả của việc sử dụng năng lượng hạch tâm. Văn hoá tiêu thụ tạo sự ưu tiên cho việc sống vội và dành cho tư lợi, đưa đến những thủ tục nhanh chóng hoặc che đậy các thông tin.

185. Cần phải nhận thức, khi chấp nhận một dự định cho một sự phát triển thật sự trọn vẹn, người ta phải suy nghĩ đến những câu hỏi trong khi tranh luận như sau: ích lợi gì? tại sao? nơi nào? khi nào? cách thức nào? cho ai? những nguy cơ có thể xảy ra? với giá thành như thế nào? ai sẽ chi trả? người đó sẽ làm như thế nào? Trong thảo luận này có những câu hỏi ưu tiên. Tỉ như, chúng ta biết, nước là một nguồn hạn hẹp và luật căn bản là việc sử dụng phải tuỳ thuộc vào quyền của những người khác. Điều này không thể nghi ngờ gì được và đặt mỗi sự phân tích về tai hại cho môi trường trong điều kiện của một vùng .

186. Tuyên bố của hội nghị tại Rio vào năm 1992 có nói: “Trong trường hợp những bất trắc gây tai hại trầm trọng và lâu dài, sự thiếu sót về hiểu biết hoàn toàn khoa học không thể là lý do để tái đặt lại tài chính để ngăn chặn sự xuống dốc của môi trường” [132]. Nguyên tắc phòng ngừa này được đặt lên để bảo vệ những người yếu đuối, không có phương tiện để sử dụng, để tự bảo vệ và để đưa ra những chứng cứ không thể phủ nhận được. Khi thông tin khách quan cho thấy trước một sự tàn hại trầm trọng và không thể sửa đổi được, mỗi dự án như thế phải dừng lại và được bổ túc. Như thế, trách nhiệm minh chứng, trong những trường hợp như thế, đưa ra một bằng chứng khách quan và không thể bàn cãi được, để thấy hoạt động được đề nghị không gây những tai hại trầm trọng cho môi trường và cho cư dân địa phương.
187. Điều này không có nghĩa là phải chống lại từng việc canh tân kỹ thuật, cho phép làm tốt phẩm chất sống của dân chúng. Nhưng trong tất cả những trường hợp, phải tuân giữ câu nói căn bản, khả năng sinh lợi không phải là tiêu chuẩn duy nhất đế chú tâm vào, và ngay khi xuất hiện những tiêu chuẩn mới để phê phán do sự phát triển trình độ hiểu biết, cần phải có một đánh giá mới do tất cả những bộ phận tham gia. Kết quả cuộc trao đổi có thể là quyết định không tiếp tục dự án, những cũng có thể thay đổi hoặc triển khai các đề nghị tương ứng.
188. Có nhiều cuộc tranh luận về đề tài môi trường, nhưng không đạt được sự đồng thuận. Một lần nữa tôi xin nhấn mạnh, Giáo Hội không có ý định giải quyết những vấn đề khoa học, cũng không thay thế chính trị, nhưng tôi mời gọi một cuộc tranh luận thẳng thắng và rõ ràng, để những nhu cầu đặc biệt và các ý thức hệ không làm tổn hại đến công ích.
(còn tiếp phần 2)
______________ 
Chú thích :
[126] Rio Declaration on Environment and Development (14 June 1992), Principle 1.
[127] BOLIVIAN BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter on the Environment and Human Development in Bolivia El universo, don de Dios para la vida (March 2012), 86.
[128] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Energy, Justice and Peace, IV, 1, Vatican City (2014), 53.
[129] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 67: AAS 101 (2009).
[130] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.
[131] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 469.
[132] Rio Declaration on the Environment and Development (14 June 1992), Principle 15.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây