Thư Chung số 93 - 07/2018

Chủ nhật - 01/07/2018 10:09
Thư Chung số 93 - 07/2018
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 93 / Năm VIII
                    * * *                                         
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 07/ 2018
-------------  
THÔNG ĐIỆP “ LAUDATO SÍ “
CHƯƠNG II : TIN MỪNG VỀ SỰ SÁNG TẠO (2)
 
Phan Rang, ngày 20.06.2018

Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
           
            Anh Hai thân ái gửi lời chào và phúc lành bình an của Chúa Giêsu ở cùng tất cả anh chị em.
            Chúng ta tiếp tục đọc và tìm hiểu Chương II, phần 2 của Thông điệp “Laudato Sí” . Phần này gồm có 17 số (từ số 58 đến số 100).
 
            Tóm lược : Sự kiện con người không phải là chủ tể của vũ trụ, ”không có nghĩa là mọi sinh vật đều giống như nhau và tước bỏ giá trị đặc thù của chúng”; và ”cũng không bao hàm sự thần thánh hóa trái đất, làm cho chúng ta không còn ơn gọi cộng tác và bảo vệ sự mong manh của trái đất” (90), nhưng ”một tâm tình kết hiệp thâm sâu với các hữu thể khác trong thiên nhiên, không thể là một tâm tình chân chính, nếu đồng thời trong tâm hồn không có sự dịu dàng, cảm thông và quan tâm đến con người” (91). Cần ý thức về một sự hiệp thông đại đồng: ”Được cùng một Cha dựng nên, tất cả hữu thể của vũ trụ chúng ta được liên kết với nhau bằng những mối dây vô hình và chúng ta họp thành một thứ gia đình đại đồng, [...] thúc đẩy chúng ta có thái độ tôn trọng thánh thiêng, yêu thương và khiêm tốn” (89).
 
            Chương này kết thúc điều nòng cốt của mạc khải Kitô giáo: ”Chúa Giêsu trần thế”, với ”tương quan rất cụ thể và thương yêu của Ngài với thế giới”, đã ”sống lại vinh hiển, hiện diện trong mọi thụ tạo với quyền chủ tể đại đồng của ngài” (100)
 
CHƯƠNG II : TIN MỪNG VỀ SỰ SÁNG TẠO (2)
           
IV. TIN MỪNG CỦA TỪNG THỤ TẠO
TRONG SỰ HÒA HỢP VỚI TOÀN THỂ SÁNG TẠO

84. Khi nhấn mạnh con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta không được quên rằng mỗi thụ tạo đều có một phận vụ và không có điều gì dư thừa. Toàn bộ vũ trụ vật chất là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa, sự âu yếm vô tận của Người đối với chúng ta. Đất đai, nguồn nước, núi non – tất cả đều là sự âu yếm của Thiên Chúa. Lịch sử tình thân với Thiên Chúa đều diễn ra trong một khoảng không gian địa lý, trở thành một dấu chứng hoàn toàn cá nhân và mỗi người trong chúng ta sẽ gìn giữ trong ký ức của mình các vị trí, mà khi nhớ lại sẽ đem đến những gì tốt đẹp. Ai đã lớn lên trong vùng núi, hay khi còn bé đã cố uống nước trong dòng suối, hay ai đã chơi trong một khu giữa thành phố, khi trở về chốn cũ, sẽ tìm lại được căn tính của mình.

85. Thiên Chúa đã viết quyển sách quí giá, mà “những dòng chữ được trình bày bằng những tạo vật trong vũ trụ” [54]. Các Giám Mục Canada đã phát biểu thật đúng đắn, không có thụ tạo nào lại không có những phát biểu tự nơi mình về Thiên Chúa : “Từ cái nhìn toàn cảnh rộng lớn cho đến một hình thức sống nhỏ bé nhất, thiên nhiên vẫn luôn là nguồn để con người kinh ngạc và thán phục. Thiên nhiên vẫn là mạc khải tiếp nối về thiên tính” [55]. Các giám mục nước Nhật cũng phát biểu những tư tưởng rất gợi cảm : “Thật vậy, mỗi thụ tạo sẽ hát lên bài thánh ca về sự hiện hữu của chúng, sẽ giúp chúng ta vui sống trong tình yêu Thiên Chúa và hy vọng” [56]. Việc chiêm ngắm thiên nhiên sẽ giúp chúng ta khám phá qua mỗi vật một lời giảng dạy mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta, vì “việc chiêm ngắm sáng tạo đối với các tín hữu cũng có nghĩa là lắng nghe một Tin vui, một tiếng nói nghịch lý và thinh lặng” [57]. Vì thế chúng ta có thể nói : “Cận kề các mạc khải đích thực chứa đựng trong Thánh Kinh, vẫn có một biểu lộ thần linh trong mặt trời chiếu sáng cũng như lúc chiều rơi” [58]. Khi con người chú tâm đến biểu lộ này, sẽ học được cách nhận ra chính mình trong liên hệ với các thụ tạo khác : “Ta diễn tả chính Ta khi đem thế giới đến như dấu ấn ; Ta sẽ biểu dương thiên tính của Ta khi khai mở thiên tính của vũ trụ”. [59]

86. Toàn thể vũ trụ với những liên hệ đa dạng của nó, cho thấy sự phong phú của Thiên Chúa một cách tốt đẹp nhất. Thánh Tôma thành Aquinô với sự khôn ngoan của mình, cho thấy rằng sự phong phú và đa dạng đều “xuất phát từ ý định của Tác Nhân tiên khởi, Đấng muốn rắng “điều gì thiếu sót nơi thụ tạo để trình bày sự nhân từ thần linh, sẽ được bổ túc bằng thụ tạo khác”[60]. Chỉ vì sự tốt lành của Người “không thể do một thụ tạo có thể trình bày cách đầy đủ được” [61]. Vì thế, chúng ta phải nắm vững sự khác biệt của các thụ tạo trong liên hệ đa dạng của chúng” [62]. Người ta có thể hiểu sự quan trọng và ý nghĩa của từng thụ tạo tốt hơn, khi nhìn vào toàn thể trong chương trình của Thiên Chúa. Sách Giáo lý dạy : “Sự liên hệ lẫn nhau của các thụ tạo là do ý muốn của Thiên Chúa. Mặt trời và mặt trăng, cây sến và bông hoa ngoài đồng, phượng hoàng và chim se sẻ – cảnh thiên hình vạn trạng và không đồng đều nói lên rằng không thụ tạo nào được đầy đủ nơi bản thân mình, chúng chỉ hiện hữu trong sự lệ thuộc lẫn nhau, để bổ túc cho nhau trong việc phục vụ lẫn nhau” [63].

87. Nếu chúng ta ý thức, tất cả những gì hiện hữu đều phản ánh Thiên Chúa, chúng ta sẽ thay cho tất cả thụ tạo và cùng với chúng tôn thờ Thiên Chúa, điều này được nổi bật trong bài thánh ca tuyệt vời của thánh Phanxicô thành Assisi :
3 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
với muôn loài thọ tạo,
đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày,
nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi,
4 Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
5 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Trăng và muôn Sao
Chúa dựng trên nền trời:
lung linh, cao quí và diễm lệ.
6 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Gió, Không khí và Mây trời,
cảnh thanh quang và bát tiết tứ thời
nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.
7 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Nước,
thật lợi ích và khiêm nhu,
quí hóa và trinh trong.
8 Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Lửa,
nhờ Anh, Chúa sáng soi đêm,
Anh đẹp và vui tươi,
oai hùng và mạnh mẽ. [64 – trích trong ofmvn.org]

88. Các giám mục Brasil nhấn mạnh: toàn thể vạn vật không những tuyên xưng Thiên Chúa, nhưng cũng là nơi nói lên sự hiện diện của Người. Trong mỗi thụ tạo chứa chất Thần Khí sống động của Người, Đấng giúp chúng ta liên kết với Người [65]. Việc khám phá sự hiện diện này động viên chúng ta phát triển “những nhân đức thuộc môi sinh” (õkologischen tugenden – vertus écologiques” [66]. Khi nói lên điều này, chúng ta đừng quên có một khoảng cách vô hạn giữa thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa, và vạn vật không thể nào chứa đựng hết sự sung mãn của Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta không làm gì tốt đẹp cho thụ tạo, vì chúng ta không nhận ra vị trí đặc thù và đích thực của chúng và cuối cùng cũng là bất công khi mong chờ những gì mà trong sự nhỏ nhoi của chúng có thể đem lại cho chúng ta.
 
V. MỘT CỘNG ĐỒNG TOÀN CẦU

89. Các thụ tạo trong thế giới này không thể nào được xem như một điều thiện hảo mà không có chủ : “Lạy Chúa, tất cả đều là gia tài của Ngài, Ngài là niềm vui của cuộc đời” (so Kn 11,26). Từ đó, đưa đến xác tín tất cả thụ tạo trong vũ trụ đều do một Cha sáng tạo, nên đã liên kết với nhau bằng một liên hệ vô hình và chúng ta, một cách nào đó. cùng với các thụ tạo thành một gia đình, một cộng đoàn cao thượng thúc đẳy chúng ta đi đến một sự tôn trọng mang sắc thái linh thiêng, yêu thương và khiêm tốn. Tôi muốn nhắc rằng : “Thiên Chúa nối kết chúng ta thật mật thiết với thế giới quanh ta, đến độ việc hoang hóa mặt đất thì cũng như một bênh tật đối với từng người, và chúng ta […] phải khóc than trước việc thất thoát một loài, như thể một việc chia cắt thân thể.” [67]

90. Điều này không có nghĩa là, mọi thứ hữu sinh đều như nhau và có một giá trị đặc biệt đối với con người, đòi buộc con người phải chịu trách nhiệm lớn lao. Điều này cũng giảm bớt việc thần hóa trái đất, giảm bớt mệnh lệnh cùng lao động với chúng và bảo vệ sự mong manh của chúng. Những quan niệm này cuối cùng tạo ra những liên hệ lệch lạc mới để thoát khỏi thực tế đang mời gọi chúng ta. [68]. Đôi khi người ta nhận ra một định kiến phủ nhận quyền ưu tiên của con người, và đưa đến một cuộc tranh chấp với các loài khác mà chúng ta không dấn thân để bảo vệ phẩm giá ngang tầm giữa con người. Thật vậy, chúng ta phải lo lắng để các hữu sinh khác không bị đối xử một cách vô trách nhiệm. Nhưng những sự bất bình đẳng lớn lao hiện diện giữa chúng ta làm chúng ta phẩn nộ, nếu như chúng ta cứ để cho một số người cho mình có phẩm giá cao hơn các kẻ khác. Chúng ta sẽ không còn nhìn thấy, một số người chết gí trong sự nghèo khổ, không có khả năng để thoát ra, trong khi những kẻ khác không biết làm gì với của cải của mình, kiêu hãnh vì vị trí trên trước của mình, để lại đàng sau lưng một lượng phung phí không đếm xuể, có thể tàn phá cả hành tinh này. Chúng ta tiếp tục chấp nhận thực hành, như một số cảm thấy mình nhiều nhân bản hơn những kẻ khác, làm như họ được sinh ra với những quyền lợi lớn lao.

91. Cảm nghiệm về một sự liên kết mật thiết với những hữu thể khác trong thiên nhiên sẽ không đích thực, nếu như đồng thời trong thâm tâm của chúng ta không có sự trìu mến, cảm thông và một sự lo lắng cho con người. Sự rời rạc của người chiến đấu chống lại sự tiêu diệt các con thú bị hăm dọa, nhưng vẫn dửng dưng trước hành động của con người, không chú ý đến kẻ nghèo hay tìm cách triệt hạ một người mà họ không thích, sự rời rạc này sẽ bộc lộ rõ ràng. Điều này sẽ làm ý nghĩa của sự chiến đấu cho môi trường gặp nguy hiểm. Không phải tình cờ mà thánh Phanxicô đã ca tụng Thiên Chúa trong bài thánh ca của mình vì các tạo vật; ngài đã thêm vào : “Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của con, vì những ai tha thứ vì tình yêu của Ngài”. Tất cả đều liên kết với nhau. Vì thế một sự chăm sóc môi trường đòi buộc một tình yêu chân thành đối với con người và một sự dấn thân kiên vững đối với những vấn đề xã hội.

92. Mặt khác, khi trái tim đích thực mở ra cho cả cộng đoàn toàn cầu, sẽ không có gì và cũng không có ai bị loại ra khỏi tình huynh đệ. Vì thế, sự dửng dưng hay độc ác đối với các tạo vật khác trong thế giới, cuối cùng rồi cũng theo cách đó chúng ta sẽ đối xử với những người khác. Trái tim chỉ có một, và cùng sự đau xót khi chúng ta hành hạ một con vật, thì cũng sẽ bộc lộ trong cách đối xử của chúng ta với những người khác. Mọi thứ độc ác đối với bất cứ thụ tạo nào “đều nghịch lại với phẩm giá con người” [69]. Chúng ta đừng cho chúng ta yêu nhiều, nếu chúng ta vì lợi ích của chúng ta đã loại một phần nào thực tại. “Bình an, công bằng và bảo quản sáng tạo là ba đề tài tuyệt đối liên kết với nhau, không thể tách biệt và nếu chỉ trình bày từng phần có thể lại rơi vào chủ thuyết đúc kết mới (Reduktionismus) [70]. Tất cả đều liên kết với nhau, và tất cả mọi người đều là anh em, chị em với nhau trong một cuộc hành trình tuyệt diệu, được tình yêu của Thiên Chúa nối kết vào nhau, tình yêu mà Thiên Chúa đem đến cho từng thụ tạo và nối kết chúng ta trong một tình yêu dịu dàng với “anh mặt trời”, “chị mặt trăng”, chị sông suối và bà mẹ trái đất.
 
VI. VIỆC XÁC ĐỊNH CHUNG CÁC CỦA CẢI

93. Ngày hôm nay, người tin cũng như kẻ không tin đều nhất trí cho rằng trái đất tất yếu là gia sản chung, hoa lợi của trái đất phải dành cho mọi người. Đối với người tín hữu điều này trở thành câu hỏi về sự trung tín đối với Đấng Sáng Tạo, chỉ vì Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới này cho tất cả mọi người. Vì thế, tất cả mọi sự tiếp cận về môi trường phải được hội nhập vào viễn cảnh xã hội, viễn cảnh này phải chú ý đến quyền lợi căn bản của những người thật bất lợi. Nguyên tắc lệ thuộc của tài sản cá nhân dựa vào xác định chung về tài sản và từ đó luật lệ toàn cầu về việc sử dụng là “luật vàng” cho sự liên hệ xã hội và là “nguyên tắc đầu tiên cho trật tự toàn xã hội”[71]. Truyền thống Kitô giáo không bao giờ công nhận quyền tài sản cá nhân là tuyệt đối và không thể đụng chạm tới và phận vụ xã hội nhấn mạnh đến mọi hình thức của tài sản cá nhân. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nhắc nhớ một cách mạnh mẽ giáo lý này khi xác định rằng : “Thiên Chúa đã tặng cho toàn thể nhân loại trái đất này để trái đất có thể nuôi sống tất cả, không loại trừ ai và cũng không ưu tiên cho ai”[72]. Đó là những lời có nội dung thật cô đọng và mạnh mẽ. Ngài nhấn mạnh “một mẫu phát triển mà không tôn trọng và động viên quyền con người, cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, bao gồm các quyền của các quốc gia và dân tộc, sẽ không xứng đáng với con người” [73]. Một cách rõ ràng hơn, Ngài giải thích rằng : “Chắc chắn, Giáo hội bảo vệ quyền tư hữu, nhưng cũng dạy rõ ràng rằng, mỗi tài sản cá nhân phải dựa vào “một giả thuyết xã hội”, để có thể phục vụ cho xác định chung mà Thiên Chúa muốn ban cho họ” [74]. Và Ngài nhấn mạnh : “Đây không phải là ý muốn của Thiên Chúa để quản lý quà tặng này theo cách chỉ làm lợi cho một số người” [75]. Điều này sẽ đặt ra câu hỏi về những thói quen bất công của một số người trên thế giới. [76].

94. Người giàu cũng như người nghèo đều có cùng một phẩm giá,vì “Chúa đã dựng nên tất cả” (Cn 22,2), “Người đã dựng nên lớn cũng như nhỏ” (Kn 6,7) và “đã để mặt trời chiếu soi trên người lành cũng như kẻ dữ” (Mt 5,45). Hệ quả thực tiển theo như lời của các vị Giám Mục Paraguay trình bày : “Mọi người nông dân đều có quyền tự nhiên một mảnh đất hợp lý, nơi anh ta có thể dựng nơi trú ngụ, làm việc để nuôi sống gia đình và có thể bảo đảm được cuộc sống của mình. Quyền lợi này phải được bảo đảm, để không thể trở thành ảo tưởng, nhưng được áp dụng cụ thể. Điều này có nghĩa là, người nông dân ngoài chứng chỉ sở hữu, còn phải có được các phương tiện như học kỹ thuật, tín dụng, bảo hiểm và thương phẩm” [77].

95. Môi trường là điều thiện hảo chung, gia tài của toàn thể nhân loại và một trách nhiệm chung cho mọi người. Nếu một người chiếm hữu một điều gì đó, thì phải quản lý vì ích lợi cho mọi người. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ làm khổ lương tâm của chúng ta vì phủ nhận sự hiện sinh của những người khác. Vì thế, các vị Giám Mục của Tân Tây Lan tự hỏi giới luật “chớ giết người” có nghĩa gì, khi “ hai mươi phần trăm dân số địa cầu sử dụng các tài nguyên với một mức độ phải cướp đi từ những nước nghèo và cả những thế hệ tương lai, những gì cần thiết để tồn tại.” [78]
 
VII. CÁI NHÌN CỦA ĐỨC GIÊSU

96. Đức Giêsu lấy lại niềm tin Thánh Kinh về Thiên Chúa Sáng Tạo và nhấn mạnh điều căn bản : Thiên Chúa là Cha (so Mt 11, 25). Khi đối thoại với các môn đệ, Đức Giêsu mời gọi họ nhận thực liên hệ phụ tử mà Người đã ban cho tất cả thụ tạo, và nhắc nhớ họ với một sự âu yếm thật cảm động, mỗi thụ tạo rất quan trọng trong mắt Người : “ Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12, 6). “Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không tích thu vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6, 26).

97. Chúa cũng có thể kêu mời những kẻ khác chăm sóc vẻ đẹp trong thế giới, chỉ vì Người luôn liên hệ với thiên nhiên và luôn chú tâm với một tình yêu và sự kinh ngạc. Khi Người đi qua một mảnh đất, Người dừng lại để chiêm ngắm vẻ đẹp mà Cha Người ra tung rải khắp nơi, và mời các môn đệ nhận ra sứ điệp của Thiên Chúa trong vạn vật : “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái” (Ga 4,35). “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loài nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành một cây.” (Mt 13, 31-32).

98. Đức Giêsu sống hòa hợp trọn vẹn với sáng tạo, và mọi kẻ khác đều ngạc nhiên : “Ông này là người thế nào mà cả gió và biển cũng tuân lệnh ?” (Mt 8,27). Người không xuất hiện như một ẩn tu xa lìa thế giới hay thù ghét những gì thích hợp cho cuộc sống. Người nói về chính mình : “Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo : “Đây là tay ăn nhậu” (Mt 11, 19). Người tách khỏi các triết thuyết khinh rẻ thân xác, vật chất và mọi thứ ở trần gian. Dù vậy, các thuyết Nhị Nguyên vô bổ trong dòng lịch sử đã ảnh hưởng nhiều trên một số nhà tư tưởng Kitô giáo và làm lệch lạc Tin Mừng. Đức Giêsu đã lao động với đôi bàn tay, va chạm trực tiếp hằng ngày với vật chất được Thiên Chúa tạo thành, để với tay nghề của mình tạo dáng cho chúng. Thật đáng kinh ngạc, phần lớn cuộc đời Người đã dành cho nghề nghiệp này trong một cuộc sống đơn sơ, không có chi gây kinh ngạc : “Đây không phải là anh thợ mộc, con bà Maria sao ?”(Mc 6,3). Và như thế, Người đã thánh hiến lao động và trao cho chúng một giá trị đặc biệt cho việc trưởng thành của chúng ta. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II dạy : “Ngay khi con người mang lấy gánh nặng của lao động trong sự hiệp nhất với Chúa bị đóng đinh, thì một cách nào đó con người, theo cách của mình, cộng tác với Con Thiên Chúa vào việc cứu độ nhân loại” [79].

99. Theo cách hiểu về thực tại của suy tư Kitô giáo, sự xác định toàn thể sáng tạo đã được hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, ngay từ thuở ban đầu : “Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,16). Tiền đề của Phúc Âm thánh Gioan (1,1-18) cho thấy hành động sáng tạo của Đức Kitô như Lời của Thiên Chúa (Logos). Thế nhưng tiền đề này gây kinh ngạc khi xác nhận rằng Lời “đã hóa thành xác thể” (Ga 1,14). Một Ngôi Vị của Ba Ngôi Thiên Chúa tự hội nhập vào vũ trụ được tạo thành và đã liên kết với tạo thành cho đến thập giá. Từ khởi đầu thế giới, nhưng với một cách thức đặc biệt từ mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Chúa Kitô thực hiện một cách bí mật trong toàn thể thực tại, mà không ảnh hưởng gì đến sự độc lập của chúng.

100.Tân Ước không những nói với chúng ta về Đức Giêsu lịch sử với sự liên lạc cụ thể và ưu ái với thế giới; nhưng còn cho thấy Người như Đấng Phục sinh đầy vinh quang hiện diện với vương quyền tròn đầy trên toàn thể sáng tạo: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”(x. Cl 1,19-20). Điều này đưa chúng ta vào cuối thời gian, khi Chúa Con trao trả lại mọi sự cho Chúa Cha và “như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (x. Cr 15, 28). Theo cách thức này, mọi tạo vật trên trần gian xuất hiện trước mặt chúng ta không phải như những thực tại tự nhiên, nhưng Đấng Phục Sinh ôm lấy chúng và hướng chúng đến một định mệnh tròn đầy. Cũng như cánh hoa ngoài đồng và các chim chóc, được nhìn với con mắt đầy kinh ngạc, thì bây giờ lại được tràn đầy sự hiện diện sáng chói của Người.
 _______________
 
Chú thích :

[36] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 15: AAS 82 (1990), 156.
[37] Catechism of the Catholic Church, 357.
[38] Angelus in Osnabrück (Germany) with the disabled, 16 November 1980: Insegnamenti 3/2 (1980), 1232.
[39] BENEDICT XVI, Homily for the Solemn Inauguration of the Petrine Ministry (24 April 2005): AAS 97 (2005), 711.
[40] Cf. BONAVENTURE, The Major Legend of Saint Francis, VIII, 1, in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 2, New York-London-Manila, 2000, 586.
[41] Catechism of the Catholic Church, 2416.
[42] GERMAN BISHOPS’ CONFERENCE, Zukunft der Schöpfung – Zukunft der Menschheit. Einklärung der Deutschen Bischofskonferenz zu Fragen der Umwelt und der Energieversorgung, (1980), II, 2.
[43] Catechism of the Catholic Church, 339.
[44] Hom. in Hexaemeron, I, 2, 10: PG 29, 9.
[45] The Divine Comedy, Paradiso, Canto XXXIII, 145.
[46] BENEDICT XVI, Catechesis (9 November 2005), 3: Insegnamenti 1 (2005), 768.
[47] ID., Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 51: AAS 101 (2009), 687.
[48] JOHN PAUL II, Catechesis (24 April 1991), 6: Insegnamenti 14 (1991), 856.
[49] Cf. Catechism of the Catholic Church, 310.
[50] Cf. SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 36.
[51] THOMAS AQUYNAS, Summa Theologiae, I, q. 104, art. 1 ad 4.
[52] ID., In octo libros Physicorum Aristotelis expositio, Lib. II, lectio 14.
[53] Against this horizon we can set the contribution of Fr Teilhard de Chardin; cf. PAUL VI, Address in a Chemical and Pharmaceutical Plant (24 February 1966): Insegnamenti 4 (1966), 992-993; JOHN PAUL II, Letter to the Reverend George Coyne(1 June 1988): Insegnamenti 11/2 (1988), 1715; BENEDICT XVI, Homily for the Celebration of Vespers in Aosta (24 July 2009): Insegnamenti 5/2 (2009), 60.
 
 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây