Thư chung số 97 - 10/2018

Thứ hai - 01/10/2018 10:17
Thư Chung số 87 - 10.2018
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 97 / Năm VIII
                    * * *                                         
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 10/ 2018
-------------   
THÔNG ĐIỆP “ LAUDATO SÍ “
CHƯƠNG IV : MỘT MÔI TRƯỜNG HỌC TRỌN VẸN (2)
 
Phan Rang, ngày 20.09.2018

Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
           

Anh Hai thân ái gửi lời chào và phúc lành bình an của Chúa Giêsu ở cùng tất cả anh chị em.
Chúng ta bước vào Tháng Mân Côi kính Đức Mẹ. Xin miễn nhắc lại về lịch sử và các giáo huấn của Hội Thánh về giá trị, lợi ích và tầm quan trọng của việc lần chuỗi Mân Côi của mỗi các nhân cũng như trong các gia đình và các cộng đoàn, nhất là các cộng đoàn đời sống thánh hiến. Là con thảo của Mẹ, anh chị em hãy sốt sắng lần chuỗi Mân Côi, riêng và chung để cảm nhận được Mẹ là Mẹ thật của chúng ta, và xin Mẹ cho chúng ta xứng đáng được nên con thật của Mẹ.
            Tháng này, chúng ta tiếp tục đọc và tìm hiểu Phần 2 Chương IV của Thông điệp “Laudato Sí” gồm từ số 147 đến số 162.
 
Tóm lược : Nền môi sinh học toàn diện này ”không thể tách rời khỏi ý niệm công ích” (156), nhưng phải hiểu một cách cụ thể: trong bối cảnh ngày nay, trong đó ”có bao nhiêu bất công và ngày càng có nhiều những người bị gạt bỏ, thiếu các nhân quyền căn bản”, sự dấn thân cho công ích có nghĩa là thực hiện những chọn lựa liên đới trên căn bản ”sự chọn lựa ưu tiên dành cho những người nghèo nhất” (158). Đó cũng là cách thức tốt nhất để để lại một thế giới lâu bền cho các thế hệ mai sau, không phải qua những lời tuyên bố, nhưng qua sự dấn thân săn sóc người nghèo ngày nay, như Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nhấn mạnh: ”ngoài sự liên đới chân thành giữa các thế hệ, còn cần tái khẳng định nhu cầu cấp thiết về luân lý cần có sự liên đới được canh tân giữa các thế hệ” (162).
 
 Nền môi sinh học toàn diện cũng ảnh hưởng tới đời sống thường nhật, điều mà Thông Điệp đặc biệt chú ý trong môi trường thành thị. Con người có khả năng lớn trong việc thích ứng và ”thật là điều đáng ngưỡng mộ óc sáng tạo và lòng quảng đại của các cá nhân và các nhóm có khả năng gỡ bỏ các giới hạn của môi trường [...], học cách định hướng cuộc sống của họ giữa sự xáo trộn và bấp bênh” (148). Dầu vậy, một sự phát triển chân chính đòi phải cải tiến toàn diện về chất lượng cuộc sống con người: không gian công cộng, nhà ở, phương tiện di chuyển, v.v. (150-154).
 
 Cả thân xác chúng ta cũng đặt chúng ta trong tương quan trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Sự đón nhận thân thể mình như hồng ân của Thiên Chúa là điều cần thiết để đón tiếp và chấp nhận toàn thế giới như món quà của Chúa Cha và như căn nhà chung; trái lại một chủ trương thống trị trên thân xác mình đang biến thành một thứ thống trị nhiều khi rất tinh vi” (155).
 
CHƯƠNG IV : MỘT MÔI TRƯỜNG HỌC TRỌN VẸN (2)
 
III. MÔI SINH HỌC CỦA ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

147. Để nói về một sự phát triển đích thực, phải bảo đảm cho có một sự làm tốt trọn vẹn phẩm chất sống của con người, và điều này có nghĩa, người ta phải phân tích không gian, nơi con người đang sống. Khung trời bao quanh ảnh hưởng trên chúng ta trong cách nhìn cuộc sống, cảm nghiệm và hoạt động. Đồng thời, trong căn phòng của chúng ta, trong nhà, ngay nơi làm việc và trong khu phố, chúng ta sử dụng môi trường để diễn tả căn tính của mình. Chúng ta cố gắng thích ứng với môi trường chung quanh và khi môi trường này mất trật tự, xáo trộn hay bị lệnh lạc trong cái nhìn, trong tiếng ồn ào, đòi buộc chúng ta phải tìm ra nguyên nhân sự quá độ này để xây dựng lại căn tính trọn vẹn và hạnh phúc.

148. Thật đáng kinh ngạc cho sức sáng tạo và lòng quảng đại của một số người và một số nhóm, có khả năng nâng các ranh giới của môi trường, bằng cách thay đổi các hậu quả không thích hợp của các điều kiện và học hỏi để định hướng cuộc sống giữa những sự sái trật tự và không bảo đảm. Tỉ như có nhiều nơi, mặt tiền các ngôi nhà bị sa sút, có những người với nhiều phẩm chất, đã chăm sóc nội thất của họ, hay họ cảm thấy hạnh phúc vì sự thân mật và tình thân hữu của dân chúng chung quanh. Cuộc sống tích cực và hạnh phúc của dân chúng sẽ lan tỏa ánh sáng ra chung quanh chưa được thỏa đáng. Đôi khi môi sinh học nhân bản cũng đáng khen khi những người nghèo có thể phát triển giữa biết bao hạn hẹp. Cảm nghiệm nghẹt thở, do việc chất đống mọi thứ trong các căn phòng và các nơi đông nghẹt dân chúng tạo ra, có thể giải tỏa được, khi liên hệ giữa con người được phát triển nhờ sự gần gũi và nhiệt tâm thân thiện, khi các cộng đoàn được tạo nên, khi các ranh giới hạn hẹp môi trường trong thâm tâm mỗi người được giải tỏa vì cảm thấy mình được đón nhận vào trong mạng lưới một cộng đoàn và thuộc về nhau. Với cách thức này, không còn nơi nào là hỏa ngục cả và sẽ trở thành khung cho một cuộc sống xứng đáng.

149. Thật sự cũng rõ ràng, sự hủy hoại cực độ được cảm nghiệm trong nhiều hoàn cảnh, nơi không có sự hòa hợp, không gian và khả năng hội nhập, gây nên sự xuất hiện những thái độ bất nhân và thao tác trên con người qua các tổ chức tội phạm. Đối với dân chúng trong các phường khóm có vấn đề như thế, mỗi ngày bị ép vào một sự vô danh trong xã hội, mà người ta cảm nghiệm trong các thành phố lớn, một mặc cảm mất gốc đưa đến những thái độ chống đối xã hội và bạo lực. Nhưng tôi xin nhấn mạnh, tình yêu mạnh hơn. Trong các điều kiện này, nhiều người liên kết với những nhóm và chung sống với nhau, có thể thay đổi những đè nén trong cảm nghiệm của cộng đoàn, nơi giải tỏa được vách ngăn của cái tôi và chiến thắng được sự ích kỷ. Cảm nghiệm cứu độ dựa vào cộng đoàn là điều gây nên sự sáng tạo để làm tốt một ngôi nhà hay một khu phố.

150. Khi người ta xuất phát từ hiệu quả hỗ tương giữa không gian và thái độ của con người, những người vạch chương trình để xây dựng các cao ốc, những khu đô thị, các không gian rộng mở và thành phố, phải liên hệ với nhiều điều khác nhau, giúp hiểu được các tiến trình, biểu trưng và những thái độ của con người. Nếu chỉ lo làm đẹp không thôi thì chưa đủ, nhưng còn có giá trị nhiều hơn để phục vụ cho nhiều cách làm đẹp hơn nữa : phẩm chất đời sống con người, cách thích nghi của họ với môi trường, việc gặp gỡ và phụ giúp giữa nhau. Từ lý do đó, điều quan trọng, các viễn cảnh của dân chúng phải được luôn bổ túc cho sự phân tích qui hoạch thành phố.

151. Cần phải chăm sóc các nơi công cộng, các viễn cảnh và những điểm thông báo trong thành phố. Vì chúng ghi trong tâm hồn chúng ta ý nghĩa thuộc về, cảm giác căn cơ và ấn tượng “như trong nhà mình” ngay giữa thành phố đang ôm trọn và kết hợp chúng ta. Điều quan trọng là những phần khác trong thành phố được hội nhập trọn vẹn và dân chúng có được một toàn cảnh, thay vì tự đóng kín mình trong khu phố như một không gian thực sự chia sẻ với người khác. Tất cả sự can thiệp vào mảnh đất thuộc thành phố hay miền quê phải chú ý đến thực tế, những yếu tố khác nhau của địa phương, tạo nên một tổng thể mà dân chúng xem như một hình ảnh phong phú đầy ý nghĩa. Với cách này, những người khác sẽ không còn là kẻ xa lạ và cảm nghiệm là một thành phần của một thứ “chúng tôi” do chính chúng ta cùng nhau xây dựng. Cũng vì lý do đó, trong môi trường thành phố cũng như môi trường đồng quê, phải gìn giữ một vài nơi, tránh cho con người can thiệp vào, làm thay đổi.

152. Việc thiếu nơi cư trú là một vấn đề trầm trọng trong nhiều nơi trên thế giới, trong vùng đồng ruộng cũng như ngay giữa các thành phố lớn, chỉ vì quỹ nhà đất cho đô thành chỉ đáp ứng một phần nhỏ cho những người cần thiết. Không những kẻ nghèo mà ngay cả phần đông trong xã hội cũng gặp khó khăn trong vấn đề tìm một chổ trú ngụ riêng cho mình. Việc làm chủ một căn hộ cũng liên hệ rất nhiều đến phẩm giá của con người, cũng như sự phát triển của các gia đình. Đó cũng là một vấn nạn căn bản cho môn sinh thái nhân bản. Nếu như trong một nơi xác định đã có những ngôi nhà được xây thật lộn xộn, việc đầu tiên là thành phố hóa nơi này, nhưng không làm cho dân chúng mất gốc và giải tỏa họ. Nếu như những người nghèo sống trong những vùng ngoại ô dơ bẩn hay trong những xóm nhà nguy hiểm, nếu như người ta muốn giải tòa, thì “đừng gia tăng đau khổ thêm đau khổ […] nhưng cần phải cung cấp một dự án tương đối và sớm sủa, đưa ra những nơi trú ngụ xứng đáng và tham khảo cho những người có nhu cầu” [118]. Đồng thời sự sáng tạo phải hướng đến việc đưa các phường có vấn đề vào trong thành phố có thể đón nhận được. “Các thành phố tốt đẹp dường nào, có thể giúp vượt qua sự bất mãn bệnh hoạn bằng cách đưa những người khác biệt nhau vào trong một tác nhân phát triển. Thành phố đẹp chừng nào, ngay trong những kiến trúc, có nhiều chổ ở, tạo liên hệ và việc chấp nhận những người khác” [119].

153. Phẩm chất cuộc sống trong thành phố liên kết với việc chuyên chở, gây nhức nhối cho thị dân. Trong thành phố, nhiều chiếc ô-tô chỉ dành cho một hay hai người. Điều này làm cho việc giao thông ra nặng nề, mức độ ô nhiễm lại cao, một lượng lớn năng lượng không thể tái chế được sử dụng, và như thế cần có những xa lộ và chỗ đậu xe, ảnh hưởng đến cấu tạo của thành phố. Nhiều nhà chuyên môn đồng ý rằng, phải ưu tiên chú tâm đến phương tiện giao thông công cộng. Nhưng một số người chấp nhận cách khó khăn, nếu không cải thiện các phương tiện giao thông này, vì trong nhiều thành phố do quá đông người, bất tiện hay không được thuận lợi khi phải đi gần hay không được bảo đảm, cũng như hành khách không thân thiện.

154. Việc nhận thức phẩm giá đặc biệt của con người thường nghịch lại với cuộc sống xáo trộn mà con người phải chịu đựng trong thành phố. Nhưng điều này không được làm quên lãng và không chú trọng đến tình trạng bị bỏ rơi mà nhiều người đang sống trong vùng đồng ruộng phải chịu, nơi việc phục vụ cần thiết không đi đến được và cũng là nơi các người lao động bị rơi vào tình trạng nô lệ không có luật lệ và cũng không có một viễn ảnh cho một cuộc sống xứng đáng.

155. Môi sinh học nhân bản đòi buộc một điều căn bản hơn : liên hệ cần thiết của đời sống con người với lề luật luân lý được khắc ghi trong bản chất riêng của mình. Liên hệ này tất yếu để có thể tạo được một môi trường xứng đáng hơn. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI xác quyết : có một môi sinh học nhân bản (Õkologie des Menschen –écologie de l’homme) chỉ vì “con người có một bản chất mà họ phải tôn trọng và họ không thể nào muốn làm gì thì làm theo ý mình” [120] Theo nghĩa này, người ta phải công nhận rằng, thân xác chúng ta đặt chúng ta vào một liên hệ trực tiếp với môi trường và với các sinh vật khác. Việc chấp nhận thân xác của mình như là hồng ân của Thiên Chúa, cần thiết phải đón nhận và chấp nhận trọn cả thế giới cũng là hồng ân của Cha và là ngôi nhà chung; trong khi lý luận cho việc làm chủ thân xác dễ dàng trở thành lý luận làm chủ cả thiên nhiên. Phải học hỏi để chấp nhận thân xác của mình, để chăm sóc và tôn trọng những ý nghĩa đa dạng, là sinh thái học nhân bản đích thực. Cũng như việc đánh giá thân xác mình là nam hay nữ cũng cần thiết, để có thể nhận ra chính mình trong việc gặp gỡ với người khác mình. Với cách này, có thể vui mừng đón nhận hồng ân đặc biệt của kẻ khác là đàn ông hay đàn bà, là công trình của Thiên Chúa, và giúp làm phong phú cho nhau. Vì thế, thái độ cho rằng “phải xóa đi sự khác biệt giữa tính dục, vì không còn biết xử lý như thế nào”, là thái độ không lành mạnh” [121].
 
IV. NGUYÊN TẮC CÔNG ÍCH

156. Môi sinh học nhân bản không thể tách rời với ý niệm công ích, một nguyên tắc giữ vai trò trung tâm và kết hợp trong đạo đức xã hội. Đó là “toàn bộ các điều kiện cho một cuộc sống xã hội, cho từng nhóm cũng như cho từng cá nhân, có thể đạt được cách dễ dàng sự toàn thiện trọn vẹn” [122].

157. Công ích xuất phát từ sự tôn trọng con người như là điều xuất phát từ các lề luật nền tảng và bất biến, nhằm vào sự phát triển toàn diện. Công ích cũng đòi hỏi thiện ích xã hội và sự phát triển những nhóm khác biệt trung gian, dựa theo nguyên tắc bổ trợ. Giữa những người này, gia đình là tế bào gốc cho xã hội. Cuối cùng, thiện ích đòi buộc sự hoà bình xã hội, có nghĩa là sự bền vững và đảm bảo cho một trật tự xác định, không thể thực hiện được, nếu không có sự chú tâm đặc biệt đến công bình phân phối, mà việc vi phạm luật này sẽ luôn tạo nên bạo lực. Toàn thể xã hội – trong đó một cách đặc biệt là thành phố – có trách nhiệm đòi buộc vào bảo vệ công ích.

158. Trong những điều kiện hiện hành của xã hội toàn cầu, trong đó có rất nhiều bất bình đẳng trong xã hội và luôn luôn có nhiều người bị loại trừ, bị cướp đi các luật lệ cơ bản cho nhân phẩm, việc áp dụng nguyên tắc công ích như hệ quả hợp lý và không thể phủ nhận được, một lời kêu gọi tình liên đới và một định kiến ưu tiên cho người nghèo khổ nhất. Định kiến này mang ý nghĩa, được xem như rút ra từ những hệ luận của việc xác định chung về của cải trái đất, nhưng, như tôi đã cố gắng giải thích trong tông huấn Evangelii Gaudium –Niềm Vui Tin Mừng [123] – nó đòi buộc trước tiên phải nhìn phẩm giá vô hạn của những người nghèo trong ánh sáng đức tin sâu xa nhất. Chỉ cần nhìn thực tại để hiểu rằng, định kiến này là một sự đòi hỏi đạo đức căn bản để thực hiện cách hữu hiệu cho công ích.
 
V. SỰ CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THẾ HỆ

159. Quan niệm về công ích phải liên hệ đến các thế hệ tương lai. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu cho thấy những hậu quả tác hại nặng nề nhất, đưa đến việc không công nhận một số phận chung mà những người đến sau chúng ta bị loại ra ngoài. Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài được. Nhớ đến hoàn cảnh này, trong đó chúng ta đã để lại hành tinh cho những thế hệ tương lai, chúng ta sẽ bước vào một lôgic khác về quà tặng nhưng không, mà chúng ta đã nhận và sẽ trao lại. Khi trái đất được ban cho chúng ta, thì chúng ta không thể nào chỉ nghĩ theo tiêu chuẩn hiệu năng và khả năng sản xuất cho việc sử dụng cá nhân chúng ta được. Chúng ta không thể nói về thái độ theo định kiến, nhưng về một câu hỏi căn bản về công bằng, vì trái đất mà chúng ta lãnh nhận, cũng thuộc về những người sẽ tới. Các Đức Giám Mục Bồ Đào Nha khuyến khích đón nhận trách nhiệm công bằng này: “Môi trường nằm trong lôgic của việc đón nhận. Đó là món quà vay mượn, mà mỗi thế hệ đón nhận và phải tiếp tục trao cho những thế hệ tiếp nối” [124]. Một sinh thái học trọn vẹn phải có viễn ảnh này.

160. Chúng ta muốn trao lại một trái đất nào cho những người tiếp nối chúng ta, cho con cái đang lớn của chúng ta? Câu hỏi này không những liên quan đến môi trường cách độc lập, chỉ vì người ta không thể đặt câu hỏi này cách manh múng được. Khi tự hỏi về trái đất mà chúng ta muốn để lại, chúng ta có ý nói đến định hướng của nó cách chung, ý nghĩa và giá trị của nó. Nếu câu hỏi này không được suy xét kỹ, tôi không tin rằng những ưu tư của chúng ta về môi sinh có thể đạt được kết quả có ý nghĩa. Nhưng nếu câu hỏi này được can đảm đặt ra, nó sẽ dẫn chúng ta đến những câu hỏi khác một cách trực tiếp hơn: tại sao chúng ta bước qua thế giới này? chúng ta bước vào cuộc sống này để làm gì? chúng ta làm việc để làm gì cho mệt? thế giới này tại sao cần đến chúng ta? Vì thật ra, nói mãi cũng không đủ, tại sao chúng ta phải lo lắng cho thế hệ tương lai? Chúng ta phải ý thức rằng, chúng ta đang đặt phẩm giá của chúng ta lên bàn cân. Chúng ta là những người đầu tiên chú tâm đến việc để lại cho hậu thế một hành tinh có thể trú ngụ được. Đó cũng là bi kịch cho chính chúng ta, vì điều này cho thấy ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trái đất này đang bị gặp khủng hoảng.

161. Những tiền dự bi thảm không thể bị đánh giá thấp hoặc cười cợt được. Chúng ta có thể để lại cho những thế hệ tiếp sau quá nhiều đống đổ nát, hoang mạc và dơ bẩn. Mức độ tiêu thụ, sử dụng phung phí và thay đổi thế giới xung quanh vượt quá khả năng của hành tinh, đến độ cách sống hiện tại mà chúng ta đang thực hiện, sẽ chấm dứt trong tại hoạ, như đã xuất hiện theo chu kỳ trong nhiều vùng khác nhau. Việc giảm bới các hậu quả của sự bất bình đẳng hiện tại, lệ thuộc vào điều chúng ta đang làm, nhất là, khi chúng ta nghĩ đến trách nhiệm mà những người phải gánh lấy những điều tồi tệ do chúng ta đã làm.

162. Khó khăn để đón nhận những thách đố này có liên hệ với việc sa đoạ đạo đức và văn hoá, kèm theo sự sa sút về mặt môi sinh. Con người hậu thời tân tiến sẽ gặp nguy hiểm ngay trong chính cá nhân của mình, và rất nhiều vấn đề xã hội liên hệ đến chủ thuyết cấp thời ích kỷ, với cuộc khủng hoảng trong liên hệ gia đình và xã hội, cùng với những khó khăn trong việc liên hệ với đồng loại. Một sự tiêu thụ trực tiếp và quá đáng của cha mẹ gây tai hại cho chính con cái mình, về lâu về dài sẽ khó khăn hơn để tậu một ngôi nhà và lập một gia đình. Ngoài ra, sự bất lực của chúng ta để suy nghĩ cẩn thận về các thế hệ tương lai, liên kết với sự bất lực để triển khai quan niệm của chúng ta về những việc chú tâm hiện tại và suy nghĩ về những người bị loại ra khỏi sự phát triển. Chúng ta không những suy nghĩ đến những người nghèo khổ trong tương lai. Thật cũng đủ để suy nghĩ đến những người nghèo trong hiện tại, họ có rất ít năm để sống trên trần gian này và không còn tiếp tục chờ đợi được nữa. Vì thế, “cận kề sự liên đới với các thế hệ […] cần phải nhấn mạnh về mặt luân lý đến sự liên đới ngay trong một thế hệ” [125].
___________________  

Chú thích :
[117] Some authors have emphasized the values frequently found, for example, in the villas, chabolas or favelas of Latin America: cf. JUAN CARLOS SCANNONE, S.J., “La irrupción del pobre y la lógica de la gratuidad”, in JUAN CARLOS SCANNONE and MARCELO PERINE (eds.), Irrupción del pobre y quehacer filosófico. Hacia una nueva racionalidad, Buenos Aires, 1993, 225-230.
[118] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 482.
[119] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 210: AAS 105 (2013), 1107.
[120] Address to the German Bundestag, Berlin (22 September 2011): AAS 103 (2011), 668.
[121] Catechesis (15 April 2015): L’Osservatore Romano, 16 April 2015, p. 8.
[122] SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 26.
[123] Cf. Nos. 186-201: AAS 105 (2013), 1098-1105.
[124] PORTUGUESE BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum (15 September 2003), 20.
[125] BENEDICT XVI, Message for the 2010 World Day of Peace, 8: AAS 102 (2010), 45.
 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây