Thư Chung số 91 - 05/2018

Thứ bảy - 05/05/2018 09:56
Thư chung số 91 - 05/2018
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 91 / Năm VIII
                    * * *                                         
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 05/ 2018
-------------  
THÔNG ĐIỆP “ LAUDATO SÍ “
CHƯƠNG I. NHỮNG GÌ ĐANG XẢY RA CHO NHÀ CHÚNG TA  (2)
 
Phan Rang, ngày 20.04. 2018

Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
            Anh Hai thân ái gửi lời chào và phúc lành bình an của Chúa Giêsu ở cùng tất cả anh chị em.

            Chúng ta tiếp tục đọc và tìm hiểu Chương I của Thông điệp “Laudato Sí”. Chương này có 54 số (từ số 17 đến số 61).  Tháng này chúng ta sẽ tìm hiểu phần hai của chương này (32-61) ĐTC đề cập tới :

-          Bảo vệ sự đa dạng sinh vật (biodiversità)”Mỗi năm có hàng ngàn loại thực vật và động vật biến mất mà chúng ta không có thể biết chúng nữa, các con cháu chúng ta không thể thấy chúng nữa, chúng biến mất vĩnh viễn” (33). Không những chúng là những ”tài nguyên” có thể khai thác được, nhưng còn có giá trị tự mình. Trong viễn tượng đó ”thật là đáng ca ngợi và ngưỡng mộ những cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật tìm cách giải quyết các vấn đề do con người gây ra”, nhưng sự can thiệp của con người, khi nó nhắm phục vụ cho tài chánh và sự thiêu thụ, thì ”làm cho trái đất nơi chúng ta sinh sống bớt phung phú và tươi đẹp hơn, ngày càng giới hạn và u ám hơn” (34)
 
-          Món nợ môi sinh; trong khuôn khổ một nền luân lý đạo đức về các quan hệ quốc tế, Thông điệp của Đức Giáo Hoàng cho thấy có ”một thứ nợ về môi sinh” (51), nhất là nợ của các nước giầu đối với những nước nghèo trên thế giới. Đứng trước những thay đổi khí hậu, có ”những trách nhiệm khác nhau” (52), và trách nhiệm của các nước phát triển thì lớn hơn.
 
            Ý thức về những khác biệt sâu xa về các vấn đề này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô tỏ ra rất ngạc nhiên vì ”chỉ có những phản ứng yếu ớt” trước những thảm trạng của bao nhiêu con người và dân tộc. Mặc dù không thiếu những ví dụ tích cực (58), nhưng Thông Điệp tố giác ”một thái độ thiếu nhạy cảm và một thứ vô trách nhiệm thiếu suy xét” (59). Thiếu một nền văn hóa thích hợp (53) và sự sẵn sàng thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu thụ (59), trong khi đó cần cấp thiết ”kiến tạo một hệ thống qui phạm (..) đảm bảo hệ thống môi sinh” (53).
 
CHƯƠNG I. NHỮNG GÌ ĐANG XẢY RA CHO NHÀ CHÚNG TA
(Tiếp theo)
 
III. VIỆC MẤT DẦN SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC

32. Những nguồn tài nguyên của trái đất là đối tượng khai thác dựa theo quan niệm của công nghệ và hoạt động thương mại và sản xuất, đưa đến kết quả ngay trước mắt. Việc mất mát rừng rậm và thảo mộc đồng thời đưa đến việc đánh mất các giống loài, trong tương lai có thể là những nguồn quan trọng nhất, không những để nuôi dưỡng, nhưng còn để chữa lành bệnh tật và còn cho nhiều phục vụ đa dạng khác. Nhiều giống loài chứa các gen, là những nguồn tài nguyên cho các phận vụ chủ yếu, có thể giải quyết nhu cầu của nhân loại trong tương lai hay giúp giải quyết một vần đế môi trường nào đó.

33. Người ta không suy nghĩ đủ về nhiều giống loại được xem như “tài nguyên” hữu ích và quên rằng chúng chứa đựng những giá trị đặc thù. Mỗi năm mất đi hàng nghìn loại cây cối và thú vật, mà chúng ta không còn khả năng nhận ra, cả con cái của chúng ta cũng chưa thấy được, hoàn toàn mất đi vĩnh viễn. Phần đông chúng chết là do hoạt động một cách nào đó của con người. Vì lỗi lầm của chúng ta, mà hàng ngàn giống loài không còn tôn vinh sự hiện hữu của Thiên Chúa, cũng không trao lại cho chúng ta sứ điệp của chúng. Chúng ta không có quyền làm như thế.

34. Có lẽ, chúng ta bất an khi cảm nghiệm về cái chết của loài động vật có vú hay của một loài chim, chỉ vì chúng thường xuất hiện trước mắt chúng ta. Nhưng, các cây nấm, tảo, các con sâu, côn trùng, rắn rít và biết bao nhiêu loại vi sinh lại rất cần thiết cho hoạt động tốt của hệ thống sinh thái. Nhiều giống loài nhỏ bé, thường không được con người chú ý, lại giữ một phận vụ cơ bản để tạo sự cân bằng một vị trí. Thật sự, con người phải can thiệp khi hệ thống địa lý bước vào một tình trạng nguy cấp, nhưng ngày hôm nay, mức độ can thiệp của con người, trong một thực tại đa dạng như thiên nhiên có một mức độ, việc can thiệp của con người lại đem đến nhiều tai họa, đến độ hoạt động của con người ở mọi nơi luôn kèm theo những nguy hiểm. Thường xuất hiện những vòng xấu lẫn quẫn khi có sự can thiệp của con người để giải quyết một khó khăn nào đó, nhưng rồi hoàn cảnh tiếp tục tệ hại hơn. Tỉ như nhiều loại chim và côn trùng đã chết đi do các phân bón nông nghiệp được công nghệ sản xuất và sử dụng trên đồng ruộng, thật thì chúng hữu ích cho đồng ruộng và việc biến mất của chúng lại bị thay thế bằng một sự can thiệp khác của kỹ thuật, có thể lại đưa đến các hậu quả tai hại khác. Cũng thật đáng ca tụng và kinh ngạc trước cố gắng của các nhà khoa học và kỹ thuật, cố tìm cách giải quyết các vấn đề do con người làm ra. Nhưng nếu nhìn vào thế giới, chúng ta phải xác nhận, mức độ can thiệp của con người thường là để phục vụ cho tài chính và tiêu thụ, đã làm cho thế giới chúng ta đang sống bớt phong phú và mất đi vẻ đẹp, luôn bị hạn hẹp lại và xáo trộn, trong khi sự phát triển kỹ thuật và mức tiêu thụ tiếp tục vượt qua bất cứ một ranh giới nào. Xem ra, khi chúng ta cố gắng tạo một vẻ đẹp không thể thay thế được, thì lại tạo một thế giới khác hẳn do chính tay của con người.

35. Khi phân tích một bản khảo cứu về ảnh hưởng của môi trường, người ta thường chú ý đến hiệu quả của đất đai, nước và không khí, nhưng lại không có một nghiên cứu cẩn thận nào về hiệu quả của sự đa dạng sinh học, tỉ như việc biến mất vài loại hay nhóm thú vật hay cây cối, gần như việc biến mất này không quan trọng. Xa lộ, các văn hóa mới, những hàng rào sắt, rào chắn và những việc xây dựng khác dần dần chiếm hữu không gian sống và đôi khi cũng ngăn cản, làm cho bầy thú không còn nơi để di chuyển hay di trú, như thế sẽ đưa đến nguy cơ: các thú vật này sẽ bị tiêu diệt. Cũng có sự tương đối – như việc tạo hành lang sinh học – có thể giảm hậu quả việc xây cất này, cũng chú ý đến và lo lắng trong một số quốc gia. Khi gia tăng một số loại vì nhu cầu thị trường, người ta đã không chú ý đến hình thức tăng trưởng của chúng, để giảm bớt sự dư thừa quá mức và bỏ qua việc mất thăng bằng trong hệ thống sinh học.

36. Việc chăm sóc hệ thống sinh học phải có một cái nhìn vượt trên điều thấy ngay trước mắt, nếu người ta chỉ tìm năng xuất kinh tế nhanh và dễ dàng, thì không ai thực sự chú tâm đến việc bảo vệ. Giá phải trả cho những tai hại do dửng dưng ích kỷ gây nên, còn cao hơn lợi ích kinh tế có thể đạt được Trong trường hợp biến mất hay những tai họa nặng nề cho vài loại, chúng ta sẽ nói về giá trị vượt trên cả sự tính toán của chúng ta. Như thế chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân thinh lặng cho sự bất công nặng nề, khi một số người cho rằng họ sẽ được lợi lộc quan trọng khi phải trả cho phần còn lại của nhân loại, hiện tại cũng như tương lai, những phí tổn quá cao cho việc tàn phá môi trường.

37. Nhiều quốc gia đã có những bước tiến trong việc bảo vệ có hiệu quả ở nhiều nơi và nhiều vùng – trên đất và cả nơi đại dương – nơi cấm mọi sự can thiệp của con người, thay đổi diện mạo của chúng hay làm sai lệch hình dạng nguyên thủy của chúng. Trong việc bảo vệ đa dạng sinh học, các nhà chuyên môn nhấn mạnh đến sự cần thiết, phải chú tâm đến những vùng có nhiều giống loài qúi hiếm để bảo vệ. Nhiều nơi cần phải chăm sóc đặc biệt vì ý nghĩa to lớn cho hệ thống sinh thái toàn cầu hay vì có những dự trữ nước quan trọng và bảo đảm cho những hình thức khác của sự sống.

38. Chúng ta nêu một tỉ dụ về sự đa dạng của buồng phổi hành tinh, được trình bày bằng vùng sông Amazon và vịnh Kongo, hay những vùng có đầy nước và các băng hà. Chúng ta biết ý nghĩa của những địa điểm này cho toàn thể hành tinh và cho tương lai nhân loại. Hệ thống sinh thái của các rừng nguyên sinh ở nhiệt đới có sự đa dạng sinh thái lớn lao, mà gần như con người không thể biết hết được, dù vậy khi các rừng rậm này bị cháy rụi hay bị tàn phá đế phát triển nông nghiệp, thì trong vài năm không biết bao nhiều loài sẽ bị biến mất, khi các vùng này biến thành những sa mạc khô cằn. Thêm nữa, người ta cũng biết, khi nói về những vùng này, bắt buộc phải đưa đến một hành động quân bình thật tế nhị, vì không quên rằng những lợi lộc tài chính khổng lồ cho toàn cầu, với luận điệu lo lắng cho các nơi này, có thể đi ngược lại chủ quyền của các quốc gia đó.

Thực sự cũng đã có ý tưởng “toàn cầu hóa vùng Amazone : những ý tưởng như thế duy chỉ có lợi về mặt kinh tế cho những các cơ quan siêu quốc gia” [24]. Phải đánh giá cao trách nhiệm của các cơ quan quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự, cảm thông với dân chúng và hoạt động có tính chất phê phán – khi sử dụng cả áp lực hợp phán – để mỗi chính quyền mang trách nhiệm không thể chuyển nhượng để bảo vệ môi trường cũng như các tài nguyên thiên nhiên của quốc gia mình, mà không bán cho những cơ quan chỉ tìm lợi lộc bất chính địa phương hay quốc tế.

39. Việc thay thế những cánh rừng nguyên sinh bằng những vùng trồng cây khác, thường chỉ là độc canh, sẽ không trở thành đối tượng cho việc phân tích thích đáng. Thực vậy, việc thay thế này có thể gây ảnh hưởng trầm trọng cho sự đa dạng sinh học, thường không đón nhận loại cây mới được trồng. Ngay cả những vùng ẩm ướt, bị biến thành vùng đất canh tác, cũng mất đi sự đa dạng sinh học mà chúng đã chứa chất. Trong vài vùng ven biển, việc đánh mất hệ thống sinh thái do các vùng đầm sú gây nhiều lo lắng.

40. Các đại dương không những chứa đựng một phần lớn lượng nước của hành tinh, nhưng có cả một phần lớn sinh vật thật đa dạng, trong số đó chúng ta chưa biết được nhiều và chúng đang bị hăm dọa vì nhiều lý do. Mặt khác, cuộc sống trên sông, ao hồ, biển cả và đại dương, chu cấp lương thực cho phần lớn dân số trên trái đất, sẽ bị tai họa do việc đánh bắt cá không bị kiểm soát, tạo nên việc sa sút nhiều giống loài. Thêm nữa người ta đang phát triển nhiều cách đánh bắt cá có chọn lọc, tàn phá một phần lớn giống loài bị bắt. Đặc biệt, các sinh vật biển gặp nguy hiểm mà chúng ta không suy nghĩ đến, như một số sinh vật nổi được biết đến, tạo nên những thành phần quan trọng cho chuỗi lương thực biển khơi và thuộc về những loài phục vụ cho lương thực cho chúng ta.

41. Khi chúng ta khảo sát các đại dương thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chúng ta sẽ gặp các tảng san hô, được xem như các rừng nguyên sinh trên trái đất, vì chúng là nơi có hằng triệu loài trú ngụ, trong đó có cá, cua, hào, sứa, tảo và nhiều loại khác. Nhiều rừng san hô ngày hôn nay bị khô cằn hay đang nằm trong tình trạng bị tiêu diệt dần : “Ai đã biến thế giới dưới lòng đại đương trở thành nghĩa địa dưới nước không có sự sống, không còn màu sắc gì cả ?” [25] Hiện tượng này phần lớn là do việc làm ô nhiễm nơi đại dương như hiện tượng phá rừng, độc canh trong nông nghiệp, rác thải do công nghiệp và những phương pháp hủy hoại của việc đánh bắt cá khi sử dụng cyanure và thuốc nổ. Hiện tượng này càng bị làm gia tăng do nhiệt độ trong đại dương càng tăng cao. Những điều này giúp chúng ta nhận thức, tất cả việc tấn công vào thiên nhiên cũng sẽ đưa đến hậu quả, ngay lúc đầu chúng ta không thấy được, nhưng những hình thức sử dụng tài nguyên sẽ đưa đến cái giá phải trả là sự tàn phá, cuối cùng sẽ đi đến đáy của đại dương.

42. Cần phải đầu tư nhiều để có thể hiểu việc gìn giữ hệ thống sinh thái tốt đẹp hơn và phân tích hiệu quả những thay đổi quan trọng của môi trường. Vì tất cả tạo vật đều liên kết với nhau, cần phải đánh giá chúng với tình yêu và thán phục, và tất cả như những hữu thể mà chúng ta đều cần đến. Mỗi mảnh đất đều có một tránh nhiệm phải chăm sóc cho gia đình này. Vậy cần phải lo lắng để gìn giữ các giống loài mà chúng đang cho trú ngụ, phải triển khai một chương trình và chiến thuật để chăm sóc đặc biệt các giống loài, đang trong tình trạng bị hủy hoại.

IV. SUY GIẢM PHẨM CHẤT CUỘC SỐNG VÀ SUY THOÁI CỦA XÃ HỘI

43. Nếu chúng ta nhận thức con người là một thụ tạo trên trái đất này, họ có quyền sống và hạnh phúc, ngoài ra còn có một phẩm giá rất đặc biệt; chúng ta không thể bỏ qua các hậu quả của việc tàn phá môi trường, của mẫu phát triển hiện hành và văn hóa đào thải đối với sự sống của con người.

44. Ngày nay, tỉ dụ, chúng ta quan sát sự phát triển vô giới hạn, vô trật tự của các tỉnh thành, đến độ không còn có thể sống lành mạnh tại đây, không những vì việc ô nhiễm do khí thải độc hại, nhưng còn vì sự lộn xộn trong thành phố, vì vấn đề giao thông và khổ ải vì tiếng động và mầu sắc. Nhiều thành phố đã trở thành những cơ cấu không chút kinh tế, sử dụng năng lượng và nước quá tải. Có những khu phố, dù mới được xây dựng, bị tắt nghẽn và vô trật tự, không có đủ các mảng xanh. Điều này không thích ứng cho dân cư của hành tinh, bị chết nghẹt vì xi-măng, dầu đường, các tấm kiếng, kim loại và cướp đi sự liên hệ thể lý với thiên nhiên.

45. Nhiều vùng trong thành thị cũng như thôn quê bị tư nhân hóa đất đai, gây khó khăn cho dân cư khó tiếp xúc với các vùng này và không thể chiêm ngắm vẻ đẹp các nơi đây. Nhiều nơi khác, người ta tạo những vùng “sinh thái” để chỉ phục vụ một ít người, nhưng cấm kẻ khác bước vào để đừng phá sự yên tĩnh nhân tạo. Người ta cũng tìm thấy một thành phố có những không gian xanh được chăm sóc tốt đẹp thường ở những nơi “được bảo đảm”, nhưng lại không có trong những vùng của những người bị xã hội loại trừ.

46. Nơi những thành phần xã hội của việc thay đổi toàn cầu cũng có những hiệu quả của việc thay đổi về mặt kỹ thuật trên lao động, sự loại trừ về mặt xã hội, bất bình đẳng trong việc phân phối và sử dụng năng lượng và những việc phục vụ khác, sự phân rẽ xã hội, gia tăng bạo lực và xuất hiện những hình thức tấn công xã hội, việc buôn bán ma túy và gia tăng lượng xì ke nơi giới trẻ, việc mất đi căn tính. Đó là những dấu chứng giữa những thứ khác, cho thấy việc phát triển trong hai thế kỷ sau cùng, dưới nhiều phương diện không mang ý nghĩa phát triển và làm tốt phẩm chất cuộc sống. Vài dấu chỉ cho thấy hiện tượng sa sút về mặt xã hội, một sự đổ vỡ âm thầm của những liên hệ hội nhập và cộng đồng xã hội.

47. Ngoài ra còn có sự năng động của các phương tiện truyền thông xã hội và thế giới kỹ thuật số, một khi đã hiện diện ở khắp nơi, không thích hợp để triển khai khả năng sống khôn ngoan, suy tư sâu xa và tình yêu quảng đại. Những người khôn ngoan trong quá khứ, trong môi trường này, sẽ nhìn thấy sự khôn ngoan của mình tắt dần giữa sự ồn ào của các quảng cáo. Điều này đòi buộc chúng ta phải cố gắng để những phương tiện liên hệ đưa ra một sự phát triển về mặt văn hóa của nhân loại và không đánh mất sự phong phú sâu xa nhất. Sự khôn ngoan đích thực, do suy tư, đối thoại và gặp gỡ khoan dung giữa con người, không thể đạt được do việc chất đầy những dữ kiện, chỉ đưa đến một thứ thỏa mãn làm ô nhiễm môi trường tinh thần. Đồng thời cũng có xu hướng trong liên hệ đích thực với người khác với đòi hỏi phải thay thế qua mạng. Điều này cho phép chọn lựa hay loại bỏ những liên hệ theo sở thích của chúng ta, từ đó nảy sinh một mẫu tình cảm nhân tạo, chỉ qua máy móc hay màn ảnh hơn là với con người và vạn vật. Những phương tiện hiện hành đưa đến việc chúng ta trao đổi kiến thức và tình cảm với nhau. Dù vậy, đôi khi chúng ngăn cản chúng ta bước vào liên hệ trực tiếp với âu lo, bất an, niềm vui với kẻ khác và với cảm nghiệm cá nhân của mình. Vì thế chúng ta cũng không lấy làm lạ, dù có quá nhiều sản phẩm, nhưng vẫn có một sự không thỏa mãn chua xót nào đó trong liên hệ giữa con người hay một sự cô đơn buồn thảm.

V. SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG TOÀN CẦU VỀ MẶT XÃ HỘI

48. Môi trường nhân loại và môi trường tự nhiên cùng xấu đi và chúng ta không thể đối mặt với sự hủy hoại môi trường, nếu không chú tâm đến các nguyên nhân liên kết với việc sa sút trên bình diện con người lẫn xã hội. Thật vậy, sự hủy hoại môi trường và xã hội gây tác hại cách đặc biệt cho những gì yếu đuối nhất của hành tinh : “Như kinh nghiệm chung của đời sống hằng ngày cũng như việc nghiên cứu theo khoa học cho thấy những người nghèo nhất phải chịu hậu quả nặng nề nhất của mọi thứ tấn công vào môi trường” [26]. Tỉ dụ như việc làm cạn nguồn các loài cá, gây nguy hại đặc biệt cho những người sống về nghề cá và không còn gì để thay thế được ; việc làm ô nhiễm nguồn nước đụng chạm đặc biệt đến những người nghèo khổ nhất, họ không có khả năng để mua nước trong chai lọ, và việc mặt nước biển dâng cao ảnh hưởng trên những cư dân ven bờ, không có khả năng tìm nơi cư trú khác. Hậu quả của các hình thức hiện hành về việc sái trật tự được thấy rõ nơi những cái chết sớm ở người nghèo, trong sự xung khắc vì thiếu tài nguyên và nhiều vấn đề khác, không còn đủ không gian cho trật tự hiện hành này của thế giới [27].

49. Tôi muốn nhấn mạnh, người ta không có những trình bày rõ ràng về các vấn đề ảnh hưởng đặc biệt trên những người bị xã hội loại trừ. Họ là thành phần đông đảo nhất của hành tinh, hàng tỉ người. Ngày nay, họ chỉ được trình bày trong các thảo luận chính trị và kinh tế toàn cầu, nhưng hình như vấn đề của họ chỉ được xem như một thứ phụ lục, được thêm vào vì bị bó buộc hay phải nằm bên lề, khi người ta không xem họ như một vấn đề tệ hại phụ thuộc. Trong thực tế, khi đi vào hoạt động cụ thể, họ thường chỉ được nhìn ở vị trí cuối. Điều này chỉ vì, các nhà chuyên môn, lãnh đạo ý kiến, trung tâm liên lạc và quyền lực đã ở quá xa họ, trong những vùng thành phố bên lề, không có liên hệ gì đến vấn đề của những người bị loại. Những vị này sống và suy nghĩ từ một sự thoải mái theo cái nhìn của trình độ phát triển và một phẩm chất cuộc sống mà phần đông dân chúng toàn cầu không có được. Sự thiếu sót trong việc đụng chạm thể lý và gặp gỡ, đôi khi vì sự phân rẽ trong thành phố của chúng ta, giúp họ trấn an lương tâm và không biết đến một phần thực tế qua những phân tích lộn xộn của họ. Điều này cũng liên kết với những bài diễn văn “xanh”. Nhưng ngày nay chúng ta phải nhận rằng, một tiếp cận đích thực về mặt môi sinh phải biến thành một tiếp cận xã hội, phải có nhận định về mặt công bình trong các bàn thảo về môi trường, để lắng nghe tiếng than của trái đất, cũng như của người nghèo.

50. Thay vì giải quyết vấn đề của người nghèo và suy nghĩ về một thế giới khác, một số người chỉ đề nghị việc hạn chế sinh sản. Không thiếu những áp lực quốc tế trên các nước phát triển, trong khi những việc giúp đỡ kinh tế cho một số quyết định chính trị gắn liền với việc “sức khỏe sinh sản”. Những “việc chia sẻ dân chúng không đều và tài nguyên trong việc sử dụng lại ngăn cản việc phát triển và việc sử dụng lâu dài môi trường, người ta phải công nhận rằng, việc gia tăng dân số phải phối hợp với việc phát triển trọn vẹn và liên đới” [28]. Kết án việc gia tăng dân số và không đếm xỉa gì đến việc tiêu thụ quá đáng của một số người ưu tuyển, thì không thể là cách thế giải quyết vấn đề. Một cố gắng, hợp pháp hóa mẫu hiện tại của việc phân chia, trong đó số ít tin rằng mình có quyền tiêu thụ, điều không thể nào phổ quát cho tất cả mọi người được, chỉ vì hành tinh không thể có khả năng chịu đựng được rác thải của một thứ tiêu thụ như vậy được. Ngoài ra chúng ta cũng biết rằng, một phần ba lương thực cho cuộc sống bị phung phí và “lương thực bị bỏ đi, cũng là cướp đi từ bàn ăn của người nghèo”. Dù vậy, phải chú tâm đến sự mất cân bằng trong việc phân chia dân số trên đất đai, về phương diện quốc gia cũng như trên phương diện toàn cầu, chỉ vì sự gia tăng sức tiêu thụ sẽ đưa đến sự lộn xộn trong hoàn cảnh của nhiều vùng vì liên hệ đến các vấn đề như ô nhiễm môi trường, giao thông, xử sự với rác thải, tài nguyên bị thất thoát và phẩm chất cuộc sống.

51. Sự bất bình đẳng không chỉ ảnh hưởng đến từng cá nhân, nhưng trọn cả đất nước, buộc phải suy nghĩ đến đạo đức trong liên hệ quốc tế. Thật vậy, có một “món nợ về mặt môi sinh” – đặc biệt giữa miền bắc và miền nam – liên kết với sự bất bình đẳng trong thương mại và những hậu quả của chúng trên bình diện môi trường cũng như với việc sử dụng bất bình đẳng các tài nguyên thiên nhiên. Việc xuất khẩu vài thứ nguyên liệu thô, thỏa mãn thương trường của miền bắc với công nghệ của họ, đã tạo nhiều tai hại cho địa phương như việc gây ô nhiễm với chất thủy ngân trong các mỏ vàng hay gây độc hại với chất dioxid lưu huỳnh trong các mỏ đồng. Người ta phải chịu trách nhiệm trước sự kiện sử dụng không gian môi sinh của cả hành tinh để chất chứa các khí thải, gom góp lại trong vòng hai thế kỷ và đã tạo ra hoàn cảnh đưa tất cả quốc gia trên trái đất cùng chịu khổ. Sự đun nóng do việc tiêu thụ kinh khủng của các nước giàu, đưa đến hậu quả trong các vùng nghèo khổ trên trái đất, đặc biệt là Phi Châu, mà việc gia tăng nhiệt độ đưa đến khô hạn, tàn phá các vùng canh tác. Còn những tai hại khác, việc xuất khẩu các rác thải cứng và lỏng độc hại vào các nước đang phát triển và qua tác động gây hại cho môi trường do các các nước giàu, vì cho rằng họ mang tài chính đến các nước nghèo này : “Chúng tôi xác nhận các nhà kinh doanh quốc tế, đã làm như thế tại đây điều mà họ không được phép làm trong các nước phát triển, thường được gọi là thế giới thứ nhất. Nói cách chung, họ phải ngưng ngay hoạt động của họ và rút khỏi nơi đây, họ đã để lại nhiều tai hại cho con người và môi trường như thất nghiệp, làng mạc không sức sống, cạn kiệt dự trữ tự nhiên, rừng bị tàn phá, làm nghèo cả nông nghiệp địa phương và nuôi súc vật, cỏ dại, đồi trọc, sông bị nhiễm khuẩn và vài công tác xã hội không còn khả năng tiếp tục” [30].

52. Món nợ bên ngoài của các nước nghèo trở thành một công cụ quản lý, nhưng nó không giống với món nợ môi trường. Theo nhiều cách, một ít dân tộc phát triển chú tâm đến việc dự trữ môi sinh, tiếp đến là việc phát triển các nước giàu nhất, dựa trên giá trị của hiện tại và tương lai. Đất đai của người nghèo ở miền nam thật phì nhiêu và ít bị hủy hoại môi trường, nhưng để chiếm hữu những tài sản và tài nguyên này để thỏa mãn cho cuộc sống, họ bị một hệ thống thương mãi và sở hữu quái ác ngăn cấm. Các nước phát triển cần phải giải quyết món nợ này, bằng cách giới hạn việc sử dụng năng lượng không thể tái hồi và phải cứu trợ cho những nước cần nhất, để nâng đỡ hệ thống chính trị và những chương trình giúp cho việc phát triển lâu dài. Những vùng và các quốc gia nghèo nhất có rất ít khả năng để áp dụng các mẫu mới để thu hẹp các tai họa của hoạt động con người trên môi trường, vì họ không được đào tạo để triển khai các tiến trình cần thiết và họ cũng không có khả năng để trả phí tổn. Vì thế, người ta phải ý thức, trong việc thay đổi khí hậu, phải có những ý thức cần thay đổi (diversifizierte Verantwortlichkeiten – responsabilités diversifíées) và – như các Giám Mục nước Mỹ nói – “phải tập trung vào nhu cầu đặc biệt của người nghèo, người yếu đuối và những người bị thương tật, trong một tham luận thường chỉ chú tâm vào lợi ích của những người giàu” [31]. Chúng ta cần ý thức mạnh mẽ hơn, chúng ta là một gia đình nhân loại duy nhất. Không có ranh giới hay rào cảng chính trị ngăn cách chúng ta lẻ loi, vì lý do đó, không có chỗ cho việc toàn cầu hóa sự dửng dưng.

VI. SỰ YẾU KÉM CỦA CÁC PHẢN ỨNG

53. Những hoàn cảnh này gợi lên tiếng rên siết của chị trái đất, liên kết với các tiếng rên siết của những kẻ bị bỏ rơi trên trái đất, trong tiếng khóc than yêu cầu chúng ta chuyển đi một hướng khác. Không bao giờ chúng ta lại đối xử tàn tệ và làm thương tổn ngôi nhà chung của chúng ta như trong hai thế kỷ qua. Nhưng chúng ta đã được kêu gọi để thành khí cụ của Thiên Chúa, Cha của chúng ta, để hành tinh của chúng ta được trở nên như ước muốn của Người khi Người sáng tạo nên nó, và đáp ứng được dự kiến hòa bình, đẹp đẻ và tràn đầy. Vấn đề là chúng ta chưa có thứ văn hóa cần thiết để đối mặt với cơn khủng hoảng này ; cần phải tạo nên một nhóm lãnh đạo leaderships, để vạch con đường trong lúc tìm cách đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại gồm trọn tất cả mọi người, mà không gây nguy hại cho các thế hệ đang đến. Cần phải tạo một hệ thống pháp lý, cho thấy các ranh giới không vượt lên và bảo đảm việc bảo vệ hệ thống môi sinh, trước khi có những hình thức quyền lực, dựa vào mô mẫu kinh tế-kỹ thuật, cuối cùng phá tan không những chính trị, nhưng cả sự tự do và công bằng.

54. Người ta thấy rõ sự yếu kém về mặt phản ứng chính trị toàn cầu. Chính trị phải tùng phục kỹ thuật và vần đề tài chính, điều này cho thấy trong sự thất bại của cả thế giới về vấn đề môi trường. Có quá nhiều lợi lộc kinh tế riêng tư, và cũng dễ dàng nhằm vào lợi lộc kinh tế, đưa đến người nắm quyền đánh giá cao ích lợi chung và khuynh đảo những thông số để không ảnh hưởng gì đến những chương trình riêng của họ.Theo nghĩa này, Tài Liệu Aparecida, đòi buộc “khi khai thác các tài nguyên tự nhiên, không được phép chỉ nhắm đến lợi ích các nhóm kinh tế, họ chỉ tàn phá một cách bất hợp lý các nguồn sống” [32]. Sự liên kết giữa kinh tế và kỹ thuật sẽ bỏ qua tất cả những gì không dính dáng đến lợi ích trực tiếp của họ. Như thế, người ta chỉ nghe những tuyên bố hời hợt, vài hành động đơn độc giả hình và cả những cố gắng cho thấy họ cũng chú tâm đến môi trường, nhưng trong thực tế, cố gắng tổ chức xã hội như thay đổi sự vật, chỉ gây khó chịu do các ảo tưởng lãng mạn hay như một sự ngăn cản phải đối mặt.

55. Dần dần một số quốc gia cũng có thể minh chứng những bước tiến có ý nghĩa, phát triển các kiểm soát có hiệu quả và một sự chiến đấu đích thực chống lại sự hủy hoại. Có nhiều cảm nghiệm về mặt môi sinh trong quần chúng, nhưng cũng không đủ để thay đổi các thói quen tiêu thụ có hại, không phải loại bỏ, nhưng phổ biến và triển khai. Để đưa ra một tỉ dụ đơn sơ, việc sử dụng các máy lạnh ngày càng tăng và nhiều hiệu năng hơn. Các thị trường hưởng lợi trực tiếp, càng kích thích những yêu cầu này. Nếu có ai đứng bên ngoài chú ý đến dân chúng trên trái đất này, sẽ rất kinh ngạc vì thái độ này, vì cho đến bây giờ thái độ này bị xem như một thứ tự tử.

56. Trong thời gian qua, các quyền lực kinh tế tiếp tục hợp pháp hóa hệ thống toàn cầu hiện tại, bằng cách nêu lên một định hướng và một cố gắng theo lợi nhuận tài chính để làm quên đi hiện trạng cũng như hậu quả trên phẩm giá con người và môi trường. Như thế rõ ràng, việc làm ô nhiễm các điều kiện môi trường và ô nhiễm trên bình diện nhân phẩm và đạo đức, liên kết mật thiết với nhau. Nhiều người nói rằng, họ không ý thức việc làm của họ vô đạo đức, vì việc phủ nhận giúp chúng ta can đảm nhìn thực tại trong một thế giới bị hạn hẹp chóng qua. Vì thế mà ngày nay “tất cả những gì yếu đuối cũng như môi trường không có gì tự vệ để chống lại lợi ích của thị trường, được thần thánh hóa, trở thành lề luật tuyệt đối” [33].

57. Có thể thấy trước rằng, đối diện với việc làm cạn kiệt một số tài nguyên, sẽ đưa đến một hoàn cảnh, dễ dàng tạo ra chiến tranh, giấu mặt dưới sự yêu sách cao thượng. Chiến tranh sẽ gây biết bao tai họa nặng nề cho môi trường cũng như cho sự phong phú về mặt văn hóa của dân chúng, và nguy cơ sẽ gia tăng khủng khiếp, khi người ta nghĩ đến các khí giới hạt nhân và sinh học. Vì “dù các thỏa thuận toàn cầu đã có việc nghiêm cấm các loại chiến tranh hoá học, vi khuẩn và sinh học, nhưng thực sự, trong các phòng thí nghiệm người ta vẫn tiếp tục tìm kiếm chế tạo các vũ khí tấn công mới, có thể thay đổi sự quân bình tự nhiên.” [34]. Về mặt chính trị, cần phải có một sự chú ý đặc biệt trong mọi hoàn cảnh để thấy trước và giải quyết các xung khắc mới. Thế nhưng, quyền lực liên kết với hệ thống kinh tế, thì những cố gắng đáng được mơ ước, sẽ làm cho các chương trình chính trị không thể nào đi xa được. Tại sao ngày nay người ta lại muốn giữ một quyền lực, mà người ta đã thấy sự bất lực của nó trong quá khứ, để can thiệp khi tình trạng khẩn cấp và cần thiết ?

58. Trong một số nước, có nhiều tấm gương tích cực trong việc làm tốt môi trường. Như việc làm sạch một số sông bị ô nhiễm trong nhiều thập kỷ, hay trồng lại các cánh rừng địa phương hay làm đẹp các cánh đồng nhờ các công tác làm sạch môi trường hay những dự án xây dựng nhà cửa với nhiều giá trị thẩm mỹ hay phát triển trong việc sản xuất năng lượng không gây ô nhiễm, làm tốt các phương tiện giao thông và các việc khác nữa. Các hoạt động này chưa giải quyết được vấn đề toàn cầu, nhưng dù sao cũng cho thấy, con người có khả năng can thiệp cách tích cực. Con người được tạo dựng để yêu, giữa các hạn hẹp của mình, cũng có thể đưa đến các cử chỉ quảng đại, liên đới và chăm sóc.

59. Nhưng đồng thời, một khoa sinh thái bề ngoài và hời hợt, chỉ giúp cho sự vô trách nhiệm và dửng dưng. Trong những giai đoạn khủng hoảng lớn lao, đòi hỏi phải có những quyết định can đảm, chúng ta lại nghĩ rằng những gì đang xảy ra thì không rõ lắm. Nếu như chúng ta chỉ nhìn các sự vật theo bề ngoài, qua những dấu chỉ khả giác về ô nhiễm và suy thoái, thì có cảm giác là các dấu chỉ này không trầm trọng mấy và hành tinh có thể tồn tại lâu dài dưới những điều kiện hiện nay. Thái độ thoái thác này cho phép chúng ta tiếp tục vẫn giữ được lối sống cũng như thói quen sản xuất và tiêu thụ. Đó là cách con người cho tất cả đều tốt đẹp, nhưng lại gây thêm những gánh nặng tự hũy hoại chính mình : con người cố không nhìn thấy tình trạng đó, không công nhận, không đưa ra những quyết định quan trọng, cứ xem như không có gì quan trọng đang diễn ra.

VII. NHỮNG Ý KIẾN KHÁC BIỆT

60. Cuối cùng, chúng ta nhận ra rằng có nhiều cách nhìn và đường hướng suy tư triển khai để đi đến những cách giải quyết khả thể. Một mặt, nhiều người đại diện kiên định với huyền thoại phát triển và cho rằng, vấn đề môi sinh có thể giải quyết một cách đơn sơ với những chương trình kỹ thuật mới, không màng đến đạo đức và những thay đổi căn bản. Mặt khác, người ta cho rằng, con người chỉ gây thêm tổn hại với sự can thiệp của mình và ảnh hưởng đến hệ thống môi sinh toàn cầu. Vì thế, phải thu hẹp sự hiện diện của con người trên hành tinh này và ngăn cấm mọi thứ can thiệp. Giữa hai thái cực này, phải suy nghĩ đến những kịch bản khả thể trong tương lai, vì không phải chỉ có một cách giải quyết duy nhất. Điều này mở ngõ cho nhiều tranh luận khác nhau, có thể đi đến đối thoại hướng vào những câu trả lời trọn vẹn.

61. Về những vấn nạn cụ thể, trên nguyên tắc, Giáo Hội không có lý do để đề nghị một giải đáp dứt khoát và Giáo Hội hiểu, phải biết lắng nghe, sau đó đề nghị một cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học, nhưng phải luôn tôn trọng các ý kiến khác biệt. Chỉ cần nhìn thực tại cách thành thật để thấy ngôi nhà chung của chúng ta đang bị hủy hoại. Hy vọng mời gọi chúng ta nhận ra, vẫn còn có lối thoát, vẫn luôn có khả năng xác nhận hướng đi cách mới mẽ, vẫn có khả năng làm một điều gì đó để giải quyết vấn đề. Dù vậy, nhiều hiện tượng của một sự gãy đổ do vận tốc thay đổi và hư hoại thật lớn lao đã được nhận ra trong các tai họa thiên nhiên theo từng vùng cũng như khủng hoảng xã hội hay cả về mặt tài chánh, vì vấn đề thế giới không thể nào phân tích hay tách rời cách đơn độc. Nhiều vùng đang gặp nguy hiểm đặc biệt, và không cần nhìn đến những dự đoán các tai họa, cho thấy hệ thống toàn cầu hiện hành dưới nhiều phương diện không còn có thể chấp nhận được nữa, vì chúng ta đã không suy nghĩ đến mục đích hoạt động của con người : “Khi chúng ta nhìn vào nhiều vùng khác nhau trên hành tinh, thật đau buồn để nhận ra rằng, nhân loại đã làm hỏng các sự chờ đợi của Thiên Chúa.” [35]
______________  
Chú thích
[24] FIFTH GENERAL CONFERENCE OF THE LATIN AMERICAN AND CARIBBEAN BISHOPS, Aparecida Document (29 June 2007), 86.
[25] CATHOLIC BISHOPS’ CONFERENCE OF THE PHILIPPINES, Pastoral Letter What is Happening to our Beautiful Land? (29 January 1988).
[26] BOLIVIAN BISHOPS’ CONFERENCE, Pastoral Letter on the Environment and Human Development in Bolivia El universo, don de Dios para la vida (23 March 2012), 17.
[27] Cf. GERMAN BISHOPS’ CONFERENCE, Commission for Social Issues, Der Klimawandel: Brennpunkt globaler, intergenerationeller und ökologischer Gerechtigkeit (September 2006), 28-30.
[28] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 483.
[29] Catechesis (5 June 2013): Insegnamenti 1/1 (2013), 280.
[30] BISHOPS OF THE PATAGONIA-COMAHUE REGION (ARGENTINA), Christmas Message (December 2009), 2.
[31] UNITED STATES CONFERENCE OF CATHOLIC BISHOPS, Global Climate Change: A Plea for Dialogue, Prudence and the Common Good (15 June 2001).
[32] FIFTH GENERAL CONFERENCE OF THE LATIN AMERICAN AND CARIBBEAN BISHOPS, Aparecida Document (29 June 2007), 471.
[33] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 56: AAS 105 (2013), 1043.
[34] JOHN PAUL II, Message for the 1990 World Day of Peace, 12: AAS 82 (1990), 154.
[35] ID., Catechesis (17 January 2001), 3: Insegnamenti 24/1 (2001), 178.
 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây