Thư chung số 101 - 02/2019

Thứ năm - 31/01/2019 09:27
Thư chung số 101 - 02/2019
Thư chung số 101 - 02/2019
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 101 / Năm IX
                    * * *                                         
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 02/ 2019
-------------  
THÔNG ĐIỆP “ LAUDATO SÍ “
CHƯƠNG VI : GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO MÔI SINH (2)
 
 
Phan Rang, ngày 20.01. 2019

Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,
           
             
Anh Hai thân ái gửi lời chào và phúc lành bình an của Chúa Giêsu ở cùng tất cả anh chị em.

            Tháng hai, tháng của Đời Sống Thánh Hiến. Ngay từ ngày 02/02, Giáo Hội mời gọi tất cả những ai sống đời thánh hiến tu trì chiêm ngắm biến cố Mẹ Dâng Chúa vào đền thánh để nhắc nhớ tất cả chúng ta ý thức cùng hiến dâng với lễ vật chí thánh là Chúa Giêsu, Con của Mẹ. Lễ dâng của Mẹ hôm nay… kéo dài mãi đến khi Mẹ đứng dưới chân Thập Giá trên đồi Canvê, của lễ ấy mới được chấp nhận trọn vẹn, để nên lời ca ngợi vinh quang Thiên Chúa, để nên ơn cứu độ cho muôn dân.

            Điều đó cũng nhắc mối anh chị em chúng ta xác tín rằng, của lễ cuộc đời chúng ta được hiến dâng qua biến cố Tuyên Hứa, Toàn Hiến, mới chỉ là nghi lễ khởi đầu; nó phải tiếp tục được triển khai và thăng tiến cho đến “giờ” Chúa tôn vinh khi tiếp nhận trọn vẹn lễ dâng cuộc đời ta qua giờ chết – dù chết dưới hình thức nào, miễn là mỗi chúng ta cố gằng từng ngày nên đồng hình dồng dạng với Chúa Giêsu, đến độ có thể cùng nói được với Người :” Lạy Cha, không phải theo ý con, mà xin theo ý Cha”; “ Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha” để “Mọi sự đã hoàn tất”, và mỗi người chúng ta sẽ được Cha đem về hưởng phần gia nghiệp và nguồn hạnh phúc muôn đời trong hân hoan.

            Tháng này, chúng ta tiếp tục học hỏi phần 2 của Chương VI, gồm từ số 222 đến số 237.

Tóm lược : Ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành trình giáo dục về môi sinh có khả năng ảnh hưởng tới những cử chỉ và thói quen thường nhật, từ sự giảm bớt tiêu thụ nước, cho đến việc thu lượm rác theo các loại khác nhau, 'tắt những đèn điện vô ích' (211): Một môi sinh học toàn diện được thực hiện kể cả bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ lý lẽ bạo lực, khai thác bóc lột, ích kỷ” (230). Tất cả điều ấy sẽ đơn giản hơn nhờ cái nhìn chiêm niệm đến từ đức tin: ”Đối với tín hữu, thế giới không được chiêm ngắm từ bên ngoài nhưng từ bên trong, nhìn nhận những lối liên hệ qua đó Chúa Cha liên kết chúng ta với mọi sinh vật. Ngoài ra khi làm tăng trưởng khả năng đặc thù mà Thiên Chúa ban cho mỗi tín hữu, sự hoán cải môi sinh dẫn đưa họ đến chỗ phát huy khả năng sáng tạo và sự hăng hái' (220).  Trở lại đường hướng được đề nghị trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”: ”Sự điều độ, được sống một cách tự do và ý thức, có tác động giải thoát”(223), cũng vậy ”hạnh phúc đòi phải biết giới hạn một số nhu cầu làm cho chúng ta choáng váng, và nhờ đó tỏ ra sẵn sàng đối với nhiều cơ may do cuộc sống mang lại” (223); theo cách thức đó, chúng ta có thể tái cảm thấy chúng ta cần lẫn nhau, chúng ta có một trách nhiệm đối với nhau và đối với thế giới, và sống tốt lành lương thiện là điều thật bõ công” (229)
 
CHƯƠNG VI : GIÁO DỤC VÀ LINH ĐẠO MÔI SINH (2)
 
IV. NIỀM VUI VÀ AN BÌNH

222. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một cách hiểu khác về phẩm chất cuộc sống và động viên một cách sống mang tính ngôn sứ và chiêm niệm, có khả năng vui mừng cách sâu xa mà không bị đè nén bởi tiêu thụ. Điều này quan trọng khi lấy lại một lời dạy cổ xưa có trong các truyền thống tôn giáo khác nhau và ngay cả trong Kinh Thánh. Lời này nói về việc xác tín “ít lại hoá nhiều” [weniger mehr ist – moins est plus]. Việc luôn luôn chất đống các đối tượng tiêu thụ sẽ hướng trái tim đi xuống và ngăn cản việc đánh giá từng đối tượng và từng giây phút. Ngược lại, sự kiện mình luôn luôn hiện diện trước một thực tại, cho dù nó rất nhỏ, cũng mở cho chúng ta nhiều khả năng để hiểu biết và triển nở chính cá nhân mình. Linh đạo Kitô giáo đề nghị một sự phát triển nhờ sự điều độ và một khả năng vui với số ít. Đó là việc trở về với sự đơn sơ, cho phép chúng ta dừng lại để đánh giá điều thật nhỏ, để cám ơn các khả năng mà cuộc sống ban cho, mà chúng ta không phải bị trói buộc vào điều chúng ta có và cũng không buồn vì điều chúng ta không chiếm hữu. Điều này giả thiết phải tránh sự năng động muốn làm chủ và gia tăng niềm vui.

223. Sự điều độ, nếu được sống với tự do và ý thức, sẽ mang tính chất giải phóng. Điều này không có nghĩa là sống ít hơn, cũng không có nghĩa là mức độ thấp kém của cuộc sống, nhưng ngược lại ; vì trong thực tế, những người sống nhiều hơn trong từng giây phút và sống tốt hơn, sẽ chấm dứt việc tìm tòi liên lỉ theo những đối tượng mà họ chưa có và khi tìm kiếm như thế, họ có khả năng phá vỡ những nhu cầu ít cần thiết và thu ngắn sự mệt mỏi lại và ít bị hành hạ. Người ta có thể sống với ít điều cần thiết, nhất là khi có khả năng xác định những thú vui khác; người ta có thể thoả mãn trong những cuộc gặp gỡ huynh đệ, trong phục vụ, trong việc triển khai những đặc sủng của chính mình, trong âm nhạc và nghệ thuật, trong việc liên hệ với thiên nhiên, trong cầu nguyện. Hạnh phúc đòi buộc chúng ta phải biết thu hẹp lại một số nhu cầu của chúng ta, và như thế, chúng ta có thể sẵn sàng cho nhiều khả năng do cuộc sống đem đến.

224. Điều độ và khiêm tốn đã không được đánh giá cao trong thế kỷ cuối cùng này. Nhưng khi chễnh mãn thực tập một nhân đức trong đời sống cá nhân hoặc trong cộng đoàn, sẽ đưa đến việc mất thăng bằng, kể cả mất thăng bằng với môi trường. Như thế không đủ để chỉ trình bày về sự toàn vẹn của hệ thống môi sinh. Người ta phải can đảm để nói về sự toàn vẹn của sự sống con người, về sự cần thiết phải có tất cả những giá trị lớn lao và liên kết với nhau. Việc biến mất đức khiêm nhường nơi một con người, thoả mãn vô cùng về khả năng làm chủ tất cả không có một ranh giới nào, cuối cùng chỉ có thể gây tác hại cho xã hội và môi trường. Không dễ để phát triển sự khiêm nhường lành mạnh và sự điều độ vui vẻ, khi chúng ta cảm thấy mình làm chủ lấy mình, khi chúng ta loại Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời chúng ta, và cái tôi của chúng ta sẽ nắm lấy vị trí của Người, nếu chúng ta tin rằng chúng ta chính là chủ thể có quyền xác định điều gì lành điều gì dữ.

225. Mặt khác, không ai có thể thoả mãn trong một sự điều độ, nếu họ không tìm được bình an nơi chính mình. Một sự hiểu biết đúng đắn về linh đạo một phần nằm ở chỗ phải triển khai ý niệm về sự bình an, điều này còn hơn là sự vắng bóng chiến tranh. Bình an nội tâm của con người có nhiều vấn đề trong việc chăm sóc môi sinh và công ích, chỉ vì, khi sống một cách đích thực, sẽ phản ảnh trong một lối sống thăng bằng, liên kết với khả năng kinh ngạc, sẽ đưa cuộc sống vào trong thâm sâu. Thiên nhiên chứa chất đầy lời của tình yêu. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể lắng nghe giữa những tiếng ồn ào liên tục, trong sự lo ra thường xuyên đầy âu lo hoặc trong thờ phượng những hình ảnh bên ngoài? Nhiều người cảm thấy một sự mất quân bình sâu xa thúc đẩy họ làm nhiều việc một cách vội vã, cảm thấy bận rộn, trong việc đảo lộn tất cả những gì xung quanh. Đó là thái độ họ xử sự với môi trường. Một khoa sinh thái đầy đủ đòi hỏi phải có thời gian để tìm lại được sự đồng cảm với sáng tạo, để chiêm ngắm Đấng Sáng Tạo, Đấng đang sống giữa chúng ta và xung quanh chúng ta; sự hiện diện của Người “không phải chúng ta đặt ra, nhưng phải khám phá và biểu lộ ra bên ngoài” [155].

226. Chúng ta nói về thái độ của trái tim đang sống với tất cả, trong một sự chú tâm trọn vẹn, điều này có nghĩa là hiện diện hoàn toàn trước một người khác mà không nghĩ về điều gì sẽ đến. Người đó hoàn toàn sống mỗi giây phút như một quà tăng của Thiên Chúa, cần phải sống tràn đầy và trọn vẹn. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ này khi Người mời chúng ta ngắm xem hoa cỏ ngoài đồng và các con chim trời, hoặc khi đối diện với một người đang lo lắng, và yêu thương họ (x. Mc 10,21). Vâng, Người hoàn toàn hiện diện đối với từng người cũng như với từng thụ tạo, và như thế, Người cho chúng ta thấy con đường để vượt qua sự lo lắng bệnh hoạn, làm cho chúng ta hời hợt, nổi nóng và thành người tiêu thụ không chút xấu hổ.

227. Dừng lại để cảm tạ Thiên Chúa trước và sau bữa ăn là biểu hiện của thái độ này. Tôi đề nghị với các Kitô hữu, hãy canh tân thói quen tốt đẹp này và sống thật sâu xa. Giây phút chúc lành, dù rất ngắn, gợi nhớ cho chúng ta, chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa với tất cả cuộc đời, điều này nâng đỡ cảm nghiệm biết ơn vì những quà tặng của sáng tạo, nhận ra những người đã lao nhọc cho các tặng phẩm này và củng cố tình liên đới với những người đang thiếu thốn.
 
V. TÌNH YÊU TRÊN BÌNH DIỆN XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ

228. Việc chăm sóc thiên nhiên là thành phần của một cách sống, đưa đến khả năng cùng chung sống với mọi người và trở thành cộng đoàn. Đức Giêsu nhắc nhớ chúng ta, Thiên Chúa là Cha chung của mọi người và điều này đã khiến tất cả chúng ta trở thành anh em, chị em với nhau. Tình liên đới phải là nhưng không và không ai phải trả giá cho điều kẻ khác thực hiện, cũng không phải một tiên liệu mà chúng ta mong chờ nơi người ấy. Vì thế, chúng ta mới có khả năng yêu mến kẻ thù. Chính tính chất nhưng không này dẫn chúng ta đến việc yêu mến đối với ngọn gió, mặt trời và các áng mây, và chấp nhận, vì chúng không nằm trong sự kiểm soát của chúng ta. Vì thế chúng ta mới có thể nói đến một tình huynh đệ phổ quát.

229. Phải ý thức rằng chúng ta cần đến nhau; chúng ta phải có trách nhiệm đối với kẻ khác và với thế giới; thật hữu ích nếu chúng ta lương thiện và tốt lành. Đã có một thời gian dài chúng ta sống sa đoạ về mặt luân lý, chúng ta cười chê đạo đức, niềm tin và lương thiện ; đã đến lúc sự hời hợt bề ngoài không giúp ích gì cho chúng ta. Việc tàn phá bất cứ nền tảng nào của đời sống cộng đoàn, cuối cùng cũng đưa đến sự chống đối người này với người kia, mỗi người tự tìm để bảo vệ những lợi ích cho riêng mình ; từ thái độ đó đưa đến những hình thức bạo lực và độc ác, ngăn cản sự phát triển một nền văn hoá đích thực để bảo vệ môi trường.

230. Gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux mời gọi chúng ta thực hiện con đường nhỏ của tình yêu, đừng đánh mất cơ hội để nói một lời dễ thương, một nụ cười, bất cứ một cử chỉ nhỏ bé nào tạo bình an và tình bạn. Một khoa sinh thái trọn vẹn cũng được thực hiện từ những cử chỉ đơn sơ hằng ngày, qua đó chúng ta phá vỡ lý luận của bạo lực, tận dụng và ích kỷ. Trong khi đó, thế giới tiêu thụ cách điên khùng cũng là thế giới trong đó cuộc sống bị các hình thức xấu xa hành hạ.

231. Tình yêu được hiện thực từ những cử chỉ bé nhỏ chú tâm cho nhau, cũng mang tính chất xã hội và chính trị, và biểu lộ trong tất cả hành động cố xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Tình yêu mến xã hội và sự dấn thân cho công ích là một biểu lộ tuyệt vời cho tình bác ái, không những tương quan giữa các cá nhân, mà còn đi đến các tương quan vĩ mô [Makro-Beziehung – macro-relations]: tương quan xã hội, kinh tế, chính trị” [156]. Vì thế, Giáo Hội đề nghị với thế giới lý tưởng của một “văn hoá tình thương” [Kultur der Liebe – civilisation de l’amour] [157]. Tình yêu, trên bình diện xã hội, là chìa khoá cho một sự phát triển đích thực: “Để có thể làm cho xã hội nhân bản hơn, cá nhân với nhân phẩm tốt đẹp hơn, phải đánh giá lại tình yêu trong đời sống xã hội – trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hoá – và phải đặt tình yêu trở thành lề luật cao nhất cho hành động” [158]. Trong khung này, tình yêu thúc đẩy chúng ta suy nghĩ đến những chiến thuật mới ngay cả như bắt dừng sự tàn phá môi trường và đòi hỏi một nền “văn hoá bảo vệ” [kultur der Achtsamkeit – culture de protection] ảnh hưởng trên toàn xã hội. Khi có người nào nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa, sẽ cùng chung với những người khác tham gia vào sự năng động xã hội, người đó cũng nhớ lại rằng, đó là một phần linh đạo của họ, chính là thực hiện tình yêu tha nhân và khi thực hiện theo cách thức này họ sẽ trưởng thành và tự thánh hoá chính mình.

232. Không phải tất cả mọi người đều được kêu gọi trực tiếp tham gia vào chính trị, nhưng ngay trong xã hội đã xuất hiện nhiều tổ chức chú tâm vào công ích, khi cố gắng bảo vệ môi trường thành phố. Tỉ như họ lo lắng cho có một nơi công cộng (một toà nhà, một vòi phung nước, một đài kỷ niệm, một khung cảnh thanh bình, một công trường) và tất cả những gì thuộc về những đối tượng đó; họ lo lắng bảo vệ, lành mạnh hoá, làm tốt hơn hoặc làm đẹp hơn. Quanh những tổ chức đó, triển khai hoặc nảy sinh một mạng lưới xã hội. Một cộng đồng tự giải thoát mình khỏi sự tiêu thụ dửng dưng. Điều đó làm nổi bật văn hoá của một căn tính chung, một lịch sử tồn tại và tiếp tục phát triển. Theo cách này, thế giới và phẩm chất đời sống của người nghèo sẽ được chăm sóc, nhờ vào ý nghĩa liên đới, đồng thời cũng là ý thức cùng chung một nhà, được Thiên Chúa trao phó. Những hoạt động chung như thế, khi diễn tả một tình yêu dâng hiến, có thể trở thành những kinh nghiệm tinh thần sâu xa.

VI. NHỮNG DẤU CHỈ BÍ TÍCH VÀ YÊN LẶNG ĐỂ CỬ HÀNH

233. Vũ trụ đang khai mở trong Thiên Chúa, Đấng bao phủ chúng tràn đầy. Như thế. có một mầu nhiệm trong một trang giấy, trên một con đường, trong sương mai, trong gương mặt của người nghèo [159]. Lý tưởng không chỉ là từ bên ngoài tiến vào bên trong để khám phá ra hành động của Thiên Chúa trong linh hồn, nhưng có thể đạt được qua cuộc gặp gỡ Người trong mọi vật, Như thánh Bonaventura dạy: “Chiêm niệm chỉ đạt đến đỉnh cao khi con người cảm nghiệm hiệu quả hồng ân Thiên Chúa trong chính mình, hoặc khi con người càng hiểu rõ để gặp gỡ Thiên Chúa trong mọi thụ tạo bên ngoài” [160].

234. Thánh Gioan Thánh Giá dạy, những gì tốt đẹp trong vạn vật và trong kinh nghiệm của thế giới “sẽ gặp nhau trong Thiên Chúa hoặc nói rõ hơn, mỗi sự vật cao vời là chính Thiên Chúa, cũng như tất cả những gì tuyệt vời đều kết hợp trong Thiên Chúa” [161] Không phải những vật hạn hẹp thực sự mang thiên tính, nhưng người theo thần bí sẽ cảm nghiệm trong thâm sâu của mình, điều giữa Thiên Chúa và tất cả vạn vật, và như thế họ cảm nhận: tất cả vạn vật là Thiên Chúa [Alle Dinge – das ist Gott / il sent que Dieu est toutes les choses] [162] Nếu người ấy kinh ngạc trước sự vĩ đại của một ngọn núi, thì họ không thể tách ngọn núi ra khỏi Thiên Chúa và nhận thức, sự kinh ngạc nội tâm mà họ cảm nghiệm, phải hướng về Chúa. “Những ngọn núi được nâng lên cao, chúng thật màu mỡ, rộng, đẹp, mát mẻ, đầy bóng mát. Đối với tôi, những ngọn núi này là Đấng yêu thương của tôi [Diese Gebirge – das ist mein Geliebter fũr mich – Mon Bien-Aimé est pour moi ces montagnes]. Những thung lũng xa xôi thật êm ả, dễ thương, thoáng đãng và đầy bóng mát, đầy nước ngọt, với biết bao loài cây cối, với tiếng ca của các loài chim đang trú ngụ. Chúng tạo nên sự mát mẻ và yên nghỉ nhờ sự yên tịnh và thinh lặng đang có. Đối với tôi, những thung lũng này là Đấng yêu thương tôi” [163].

235. Các bí tích là môt cách thức ưu tuyển, trong đó, thiên nhiên được Thiên Chúa đón lấy và trở thành trung gian cho đời sống siêu nhiên. Qua diễn tiến phụng vụ, chúng ta được mời gọi ôm lấy thế giới trên một bình diện khác. Nước, dầu, lửa và màu sắc được đón nhận với các biểu trưng của chúng và được đưa vào những lời ca tụng. Bàn tay chúc lành là công cụ của tình yêu Thiên Chúa và phản ánh sự gần gũi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đến để đồng hành với chúng ta trên đường đời. Nước được xối trên thân xác em bé được rửa tội, là dấu chỉ cho một đời sống mới. Chúng ta không thoát ra khỏi thế gian, cũng không phủ nhận thiên nhiên, khi chúng ta muốn gặp gỡ Thiên Chúa. Điều này có thể nhận ra một cách đặc biệt trong linh đạo Kitô giáo Đông phương: “Vẻ đẹp là một trong những dấu chỉ ưu ái nhất trong Giáo Hội Đông phương để chỉ sự hoà hợp thần linh và mẫu ảnh cho nhân loại được chuyển đổi, được biểu lộ ở khắp mọi nơi: trong các hình dáng và cách trình bày nhà thờ, trong âm thanh, màu sắc, ánh sáng, trong mùi hương” [164]. Theo kinh nghiệm Kitô giáo, tất cả thụ tạo của vũ trụ vật chất sẽ tìm được ý nghĩa đích thực trong Ngôi Lời Nhập Thể, chỉ vì Con Thiên Chúa đã hội nhập trong con người của mình một phần của vũ trụ vật thể, nơi mà Người đưa vào một mầm giống chuyển đổi dứt khoát: “Kitô giáo không phủ nhận vật chất, thân xác, nhưng đánh giá cao trong hành động phụng vụ, trong đó, thân xác con người cho thấy bản chất sâu xa của mình là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần và được kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng vì muốn cứu độ trần gian đã đón nhận một thân xác” [165].

236. Sáng tạo tìm được ý nghĩa cao cả nhất của mình trong bí tích Thánh Thể. Hồng ân hướng đến sự biểu lộ theo cách khả giác, đạt được cách biểu lộ khác thường khi Thiên Chúa làm người, trở thành lương thực cho thụ tạo. Nơi đỉnh cao của mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa đã muốn tiến vào sâu thẳm của chúng ta qua một chút vật chất. Không phải từ trên cao xuống, nhưng từ trong thâm sâu tiến ra, để chúng ta có thể gặp gỡ Người trong thế giới của chúng ta. Trong bí tích Thánh Thể, sự viên mãn đã được hiện thực; đó là trung tâm đời sống của vũ trụ, điểm xuất phát tràn đầy của tình yêu và cuộc sống vô hạn. Kết hợp với Ngôi Con Nhập Thể đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, toàn thể vũ trụ tạ ơn Thiên Chúa. Thật vậy, bí tích Thánh Thể tự tại là một hành động tình yêu mang tính vũ trụ: “Vâng, mang tính vũ trụ! Vì ngay cả khi được cử hành trên bàn thờ nhỏ trong một nhà thờ vùng quê, người ta vẫn luôn cử hành với một ý nghĩa xác tín trên bàn thờ của thế giới” [166]. Bí tích Thánh Thể kết hợp trời với đất, ôm trọn và thẩm thấu vào tất cả sáng tạo. Thế giới xuất phát từ bàn tay của Thiên Chúa, quay về với Người trong một sự thờ phượng thánh thiện và viên mãn. Trong Bánh Thánh Thể “cả sáng tạo hướng đến việc thần hoá, đến các tiệc thánh, đến sự kết hợp với Đấng Sáng Tạo” [167]. Vì thế, bí tích Thánh Thể cũng là nguồn ánh sáng và động lực để việc chăm sóc môi trường và mời gọi chúng ta trở thành những người gìn giữ toàn thể sáng tạo.

237. Chúa Nhật, việc tham dự vào bí tích Thánh Thể mang một ý nghĩa đặc biệt. Ngày này cũng giống như ngày Sabbat của người Do Thái, là ngày thanh tẩy những tương quan của con người với Thiên Chúa, với chính mình, với kẻ khác và với cả thế giới. Chúa Nhật là ngày Phục Sinh, “ngày đầu tiên” của sáng tạo mới, mà những hoa trái đầu tiên là nhân loại được phục sinh của Chúa, gia sản bảo đảm cho việc chuyển đổi cuối cùng của tất cả thực tại đã được sáng tạo. Ngoài ra, ngày này cũng công bố “sự yên nghỉ vĩnh cửu của con người trong Thiên Chúa” [168]. Trong cách thức này, linh đạo Kitô giáo hội nhập cả giá trị của sự nghỉ ngơi và lễ lạc. Con người thường đưa sự nghỉ ngơi chiêm niệm vào bình diện những điều vô ích và không cần thiết, và quên rằng công việc mà họ thực hiện mang một tính chất quan trọng: ý nghĩa của mình. Chúng ta được mời gọi đưa vào hành động của chúng ta một chiều kích đón nhận và nhưng không, khác với việc không làm gì cả. Đó là một cách thức hoạt động, là một phần thuộc về yếu tính của chúng ta. Với cách thức này, hoạt động của con người không chỉ tránh khỏi sự hoạt động trống rỗng, cũng như sự khao khát bạo lực và cô độc, chỉ chạy theo lợi lộc cá nhân. Luật nghỉ ngơi hằng tuần nói rõ, không làm việc trong ngày thứ bảy, “để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức” (Xh 23,12). Thật vậy, việc nghỉ ngơi là một sự nới rộng cái nhìn giúp nhận ra cách mới mẻ quyền lợi của kẻ khác. Như thế, ngày nghỉ, mà bí tích Thánh Thể là trung tâm, chiểu toả ánh sáng trên cả tuần lễ và thúc đẩy chúng ta lo chăm sóc cho thiên nhiên và người nghèo.

 
(còn tiếp)
_______________ 
Chú thích:
[154] ROMANO GUARDINI, Das Ende der Neuzeit, 72 (The End of the Modern World¸ 65-66).
[155] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium (24 November 2013), 71: AAS 105 (2013), 1050.
 [156] BENEDICT XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009) 2: AAS 101 (2009), 642.
[157] PAUL VI, Message for the 1977 World Day of Peace: AAS 68 (1976), 709.
[158] PONTIFICAL COUNCIL FOR JUSTICE AND PEACE, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 582.
[159] EVA DE VITRAY-MEYEROVITCH [ed.], Anthologie du soufisme, Paris 1978, 200).
[160] In II Sent., 23, 2, 3.
[161] Cántico Espiritual, XIV, 5.
[162] Ibid.
[163] Ibid., XIV, 6-7.
[164] JOHN PAUL II, Apostolic Letter Orientale Lumen (2 May 1995), 11: AAS 87 (1995), 757.
[165] Ibid.
[166] ID., Encyclical Letter Ecclesia de Eucharistia (17 April 2003), 8: AAS 95 (2003), 438.
[167] BENEDICT XVI, Homily for the Mass of Corpus Domini (15 June 2006): AAS 98 (2006), 513.
[168] Catechism of the Catholic Church, 2175.
 

Tác giả: thtscgs

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây