Thư chung số 113 - 02/2020

Thứ sáu - 31/01/2020 10:05
Thư chung số 113 - 02/2020
Thư chung số 113 - 02/2020
Tu Hội Thừa Sai Chúa Giêsu
       Thư số 113 / Năm X
                      * * *   
                           
LÁ THƯ ANH TỔNG PHỤ TRÁCH
Tháng 02/ 2020
-------------  

SẮC LỆNH“ PERFECTAE  CARITATIS – ĐỨC ÁI TRỌN HẢO”

                                                                                                                                                                                         
Phan Rang, ngày 20.01.2020

 
Thưa quý Anh Linh Mục,
Toàn thể anh chị em TSCG quý mến,

          Anh Hai thân ái gửi lời chào và phúc lành bình an của Chúa Giêsu ở cùng tất cả anh chị em.

          Chúng ta bước vào tháng 2, tháng đặc biệt cầu nguyện cho Đời Sống thánh hiến. Vì năm nay, ngày 02/02 cận với thời gian sau Tết Nguyên Đán, nên một số ace đi nghỉ tết chưa về, lại vì phương tiện đi lại khó khăn, nên xin các anh chị em sống tại gia nhớ lặp lại lời cam kết sau Hiệp lễ nha. Những anh chị em nào có điều kiện, xin mời về cộng đoàn Batania, Phan Rang để cùng nhau cử hành thánh lễ kính nhớ ngày Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và cùng nhau lặp lại lời Cam kết. Chúng ta hãy ý thức một lần nữa cùng Mẹ tận hiến cuộc đời chúng ta cho Tình Yêu hiến tế Chúa Giêsu, để phục vụ Hội Thánh và đem Tin Mừng yêu thương đến cho nhiều người mà chúa gửi đến cho chúng ta, hoặc sai chúng ta đến chia sẻ cuọc sống với họ.

          Giờ đây. Chúng ta tiếp tục học hỏi các hướng dẫn của Giáo Hội qua Sắc lệnh về việc Canh Tân Thích nghi các Dòng Tu: Canh tân những yếu tố cốt yếu. (Để vắn gọn, Anh xin bỏ phần chỉ dẫn cụ thể chỉ liên quan đến các dòng tu):
  1.  Khiết tịnh
(a. Giá trị). Đức khiết tịnh vì Nước Trời” (Mt 19,12), mà các tu sĩ khấn giữ, phải được quý trọng như một ân huệ cao cả của ơn thánh. Thật vậy, ơn ấy giải thoát lòng con người cách đặc biệt (x. 1 Cr 7,32-35), để nồng nàn yêu mến Chúa và yêu mọi người hơn. Vì thế, đức khiết tịnh là dấu chỉ đặc biệt của kho tàng trên trời và cũng là phương tiện thích hợp nhất cho các tu sĩ hân hoan hiến mình phụng sự Thiên Chúa và làm việc tông đồ. Do đó, họ gợi ra trước mặt mọi Ki-tô hữu sự kết hợp lạ lùng do Thiên Chúa thiết lập và sẽ tỏ hiện đầy đủ ở đời sau, đó là Giáo Hội được nhận Chúa Ki-tô làm lang quân độc nhất của mình.

(b. Các phương thế thực hiện). Vậy, các tu sĩ hãy trung thành với lời tuyên giữ, tin vào lời Chúa, trông cậy vào ơn Người, đừng tự phụ vì sức riêng của mình, lại phải sống hãm mình và gìn giữ ngũ quan. Cũng đừng bỏ qua những phương thế tự nhiên giúp cho tinh thần và thể xác được lành mạnh. Như thế, họ sẽ không bị lung lạc vì những tà thuyết rêu rao rằng sự tiết dục trọn vẹn là việc không thể giữ được hoặc có hại cho sự phát triển con người ; và như bởi một bản năng thiêng liêng, họ hãy khước từ tất cả những gì đe doạ đức khiết tịnh. Hơn nữa, hết mọi người, nhất là các bề trên, đều phải nhớ rằng : đức khiết tịnh được bảo trì an toàn hơn cả khi trong đời sống cộng đoàn có tình huynh đệ đích thực giữa các tu sĩ.

(c. Điều kiện để có thể tuyên khấn khiết tịnh). Sự tiết dục trọn vẹn đụng chạm đến những khuynh hướng thâm sâu của bản tính con người, nên những người muốn khấn giữ khiết tịnh chỉ nên quyết định và chỉ được chấp thuận sau một thời gian thử thách thực đầy đủ và đã thấy có sự trưởng thành tâm lý, tình cảm cần thiết. Không những phải căn dặn họ về những nguy hiểm hay xảy đến cho đức khiết tịnh, nhưng còn phải huấn luyện thế nào để họ đón nhận cuộc sống độc thân hiến dâng cho Thiên Chúa cũng đem lại lợi ích cho con người toàn diện của họ.
  1. Khó nghèo
(a. Giá trị quy Ki-tô và tính hiện tại). Tự nguyện sống khó nghèo để theo Chúa Ki-tô là một dấu chứng ngày nay rất được quý trọng. Vì thế, các tu sĩ hãy miệt mài trau dồi và nếu cần, hãy biểu lộ sự khó nghèo đó bằng những hình thức mới. Nhờ nhân đức này, họ được san sẻ sự khó nghèo của Chúa Ki-tô, Đấng tuy giàu có, đã trở nên thiếu thốn vì chúng ta để chúng ta được giàu sang nhờ sự khó nghèo của Người (x. 2 Cr 8,9 ; Mt 8,20).
(b. Khó nghèo cá nhân, thực sự). Khó nghèo trong đời tu không chỉ hạn hẹp trong sự lệ thuộc bề trên khi sử dụng của cải, nhưng phải là nghèo khó trong thực tế và trong tinh thần để chỉ lo thu tích một kho tàng trên trời (Mt 6,20).

(c. Làm việc và phó thác cho Chúa). Trong chức vụ riêng của mỗi người, các tu sĩ phải cảm thấy luật làm việc là luật chung ràng buộc họ, và trong lúc nhờ đó mưu cầu những gì cần thiết để sống và hoạt động, họ hãy trút bỏ mọi âu lo quá đáng để trông cậy vào sự quan phòng của Cha trên trời (x. Mt 6,25).

(d. Có thể từ khước sở hữu của cải). Các hội dòng có thể ấn định trong hiến pháp cho phép các tu sĩ khước từ gia sản đã có hay sẽ lãnh nhận.

(đ. Khó nghèo tập thể : các chỉ dẫn tích cực). Chính các hội dòng, tuỳ hoàn cảnh địa phương, hãy nỗ lực làm chứng tập thể về khó nghèo, hãy sẵn lòng trích một phần của cải để cung ứng cho những nhu cầu khác của Giáo Hội và nâng đỡ những người thiếu thốn là những người mà mọi tu sĩ phải yêu thương với tâm tình của Chúa Ki-tô (x. Mt 19,21 ; 25,34-46 ; Gc 2,15-16 ; 1 Ga 3,17). Các tỉnh cũng như các nhà của hội dòng hãy san sẻ của cải cho nhau, để nơi dư thừa giúp đỡ nơi thiếu thốn.

(e. Khó nghèo tập thế : các chỉ dẫn tiêu cực). Mặc dầu các hội dòng được quyền sở hữu những gì cần thiết để sống ở đời này và để hoạt động, trừ khi nào quy luật và hiến pháp quy định ngược lại, nhưng họ hãy tránh mọi hình thức xa hoa trục lợi quá đáng hoặc thu tích tài sản.
  1. Vâng lời
(a. Giá trị quy Ki-tô, cứu chuộc và Giáo Hội). Nhờ tuyên giữ vâng lời, các tu sĩ dâng hiến ý muốn mình làm của lễ bản thân dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó họ được kết hiệp với ý muốn cứu độ của Người cách kiên trì và chắc chắn hơn. Vậy theo gương Chúa Ki-tô, Đấng đã đến để làm theo ý Chúa Cha (x. Ga 4,34 ; 5,30 ; Dt 10,7 ; Tv 39,9) tự nhận làm thân phận tôi tớ” (Pl 2,7) và đã học tập đức vâng lời từ những đau khổ phải chịu (x. Dt 5,8), các tu sĩ, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, hãy lấy đức tin tùng phục các vị bề trên, đại diện Thiên Chúa, và nhờ các ngài hướng dẫn, họ phục vụ mọi anh em trong Chúa Ki-tô, như chính Chúa Ki-tô vì tuân phục Chúa Cha đã phục vụ anh em và hiến dâng mạng sống để cứu chuộc mọi người (x. Mt 20,28 ; Ga 10,14-18). Như thế, họ được liên kết chặt chẽ hơn với sứ mệnh phục vụ của Giáo Hội và nỗ lực đạt đến tầm mức sung mãn của Chúa Ki-tô (x. Ep 4,13).

(b. Thực hành vâng lời theo Tin Mừng). Vậy các tu sĩ hãy khiêm tốn vâng phục các bề trên của mình theo tiêu chuẩn quy luật và hiến pháp, trong tinh thần tin kính và yêu mến đối với thánh ý Chúa, dùng tất cả năng lực trí tuệ, ý muốn cũng như năng khiếu và ơn Chúa ban để thi hành các giới lệnh và chu toàn những phận vụ đã được uỷ thác cho mình, vì biết mình đang góp công xây dựng Thân Thể Chúa Ki-tô theo như ý định Thiên Chúa. Như thế, đức vâng lời trong đời tu chẳng những không làm giảm bớt phẩm giá, nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa.

(c. Thi hành quyền bính theo Tin Mừng). Các vị bề trên phải trả lẽ về các linh hồn đã được uỷ thác cho mình (x. Dt 13,17), nên hãy ngoan ngoãn tuân hành thánh ý Thiên Chúa khi chu toàn bổn phận và hãy thi hành quyền bính trong tinh thần phục vụ anh em, làm sao để chứng minh được mối tình Thiên Chúa đã yêu họ. Với lòng kính trọng nhân vị, các ngài hãy cai quản những kẻ thuộc quyền như là những con cái Thiên Chúa bằng cách thúc đẩy sự vâng phục tự nguyện. Phải đặc biệt để cho họ được tự do cần thiết trong việc xưng tội và linh hướng. Hãy hướng dẫn các tu sĩ biết cộng tác với tinh thần vâng lời tích cực và trách nhiệm, trong những bổn phận phải chu toàn và những sáng kiến cần có. Nên các bề trên hãy sẵn sàng lắng nghe các tu sĩ và khuyến khích họ cộng tác mưu lợi ích của hội dòng và của Giáo Hội, tuy nhiên vẫn phải duy trì quyền ấn định và truyền dạy những gì phải làm.

Các tu nghị và các hội đồng phải trung thành chu toàn bổn phận quản trị đã được uỷ thác đồng thời thể hiện sự tham gia và quan tâm của mọi tu sĩ, mỗi người theo cách thức riêng, đối với lợi ích của toàn thể cộng đoàn.
 
  1. Đời sống chung
(a. Thực hành. Các giá trị và kết quả). Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, phụng vụ thánh và nhất là bí tích Thánh Thể phải được duy trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một tinh thần (x. Cv 2,42), theo gương Giáo Hội sơ khai, trong đó các tín hữu chỉ có một tấm lòng, một tâm hồn (x. Cv 4,32). Là chi thể của Chúa Ki-tô, các tu sĩ hãy mang lấy gánh nặng cho nhau (x. Gl 6,2), và trọng kính lẫn nhau trong tinh thần giao hảo huynh đệ (x. Rm 12,10). Thực vậy, khi được tình yêu của Thiên Chúa nhờ Chúa Thánh Thần đổ tràn đầy trong mọi tâm hồn (x. Rm 5,5), cộng đoàn giống như một gia đình thực sự đoàn tụ nhân danh Chúa, được hưởng sự hiện diện của Người (x. Mt 18,20). Yêu thương là chu toàn lề luật (x. Rm 13,10) và là dây liên kết sự trọn lành (x. Cl 3,14) ; nhờ đức ái mà chúng ta biết rằng mình được chuyển từ cõi chết sang cõi sống (x. 1 Ga 3,14). Hơn nữa, sự hiệp nhất huynh đệ loan báo Chúa Ki-tô đã đến (x. Ga 13,35 ; 17,21) và phát sinh một năng lực tông đồ mãnh liệt.

(b. Tránh phân biệt giai cấp). Để tình huynh đệ giữa các tu sĩ được mật thiết hơn, hãy để những anh em trợ sĩ, hay gọi bằng những tên tương tự, được liên kết chặt chẽ với cuộc sống và hoạt động của cộng đoàn. Trừ khi hoàn cảnh bắt buộc phải làm thế khác, phải liệu sao để trong các dòng nữ chỉ có một bậc tu độc nhất. Giữa các chị em, chỉ còn sự khác biệt do việc phân phối công tác đòi hỏi, công tác mà mỗi người lãnh nhận tuỳ theo ơn Chúa gọi đặc biệt hay do năng khiếu riêng.

(c. Bình đẳng). Còn các đan viện và hội dòng nam, không thuần tuý dành cho giáo dân, tuỳ tính cách riêng, theo tiêu chuẩn do hiến pháp ấn định, có thể chấp nhận giáo sĩ và giáo dân trên cùng một đẳng cấp, có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, trừ những gì thuộc về chức thánh.
  1.  Nội vi của đan viện nữ
  1.  Tu phục. Y phục của các tu sĩ là dấu chỉ sự tận hiến, nên phải giản dị và khiêm tốn, khó nghèo và tề chỉnh, hơn nữa, phải phù hợp với sức khoẻ và thích nghi với hoàn cảnh thời gian, không gian cũng như nhu cầu chức vụ. Y phục của tu sĩ nam cũng như nữ, không thích ứng với các tiêu chuẩn trên đây, cần phải được sửa đổi.
  1. Huấn luyện các tu sĩ.
(a. Sau năm tập). Việc canh tân thích nghi các hội dòng lệ thuộc rất nhiều vào việc huấn luyện tu sĩ. Vì thế, các tu sĩ không phải là giáo sĩ và các nữ tu không nên ra làm việc tông đồ ngay khi vừa mãn nhà tập, nhưng phải tiếp tục huấn luyện họ cách thích đáng về mặt tu trì, tông đồ, giáo lý và kỹ thuật trong những nhà có đủ điều kiện ; cũng nên cho họ thi lấy những văn bằng thích hợp.

(b. Huấn luyện thích hợp với thế giới hiện nay). Nhưng, để việc thích nghi đời tu dòng với những đòi hỏi của thời đại chúng ta không chỉ hời hợt bên ngoài và để những tu sĩ chuyên lo việc tông đồ bên ngoài theo hiến pháp khỏi thiếu khả năng chu toàn nhiệm vụ, phải cho họ học biết cách thích đáng những lối sống, cách cảm nghĩ và suy tư đang thịnh hành trong xã hội hiện tại, mỗi người tuỳ theo khả năng trí thức và tâm tính riêng. Phải biết hoà hợp các yếu tố của việc huấn luyện sao cho người tu sĩ có một đời sống thuần nhất.

(c. Thường huấn). Suốt đời, các tu sĩ hãy chuyên chăm hoàn bị việc huấn luyện tu đức, giáo lý, kỹ thuật ; còn các bề trên hãy tuỳ sức lo cho họ có cơ hội, phương tiện và thời giờ để chu toàn bổn phận ấy.

(d. Chọn lựa và chuẩn bị các người huấn luyện). Các bề trên cũng có nhiệm vụ chọn lựa kỹ càng và chuẩn bị cẩn thận những vị giám đốc, linh hướng và giáo sư.
  1. Thành lập hội dòng mới.Về việc thành lập những hội dòng mới, phải cân nhắc kỹ lưỡng xem có cần thiết, hay ít là có ích lợi lớn lao và có khả năng tăng triển không. Như thế mới tránh được sự thành lập bữa bãi những hội dòng vô ích hoặc thiếu sinh lực. Trong các Giáo Hội mới, hãy đặc biệt cổ võ và phát triển những hình thức dòng tu thích hợp với tính tình và phong hoá dân chúng, cũng như tập tục và hoàn cảnh địa phương.
  2. Bảo toàn, thích nghi hoặc loại bỏ những công tác chuyên biệt của dòng.
  3. Các dòng và đan viện suy thoái.
  4. Sự phối hợp giữa các hội dòng.
  5. Hiệp hội bề trên thượng cấp.
(a). Nên cổ võ những hội nghị hay hội đồng các bề trên thượng cấp do Toà Thánh quy định, vì những hội đồng như vậy giúp ích rất nhiều để mỗi hội dòng đạt tới mục đích riêng cách hoàn hảo hơn, để phát triển sự hợp tác hữu hiệu hơn nhằm mưu ích cho Giáo Hội, để phân phối đồng đều hơn các thợ chuyên giảng Phúc Âm trong một địa hạt nhất định, cũng như để cứu xét, thương lượng những vấn đề chung có liên quan đến các tu sĩ, trong khi phối hợp và cộng tác thích ứng với các hội đồng giám mục về lãnh vực hoạt động tông đồ.

(b). Các tu hội đời có thể thành lập những tổ chức tương tự.
  1. Cổ võ ơn gọi tu trì.
(a). Các linh mục và những nhà giáo dục Ki-tô giáo phải cố gắng hết sức để cổ động cho ơn gọi tu trì được thêm đông, được chọn lựa thận trọng và thích đáng hầu đáp ứng đầy đủ với nhu cầu của Giáo Hội. Ngay khi giảng dạy thường ngày, cũng hãy năng đề cập đến những lời khuyên Phúc Âm và việc chọn lựa bậc sống tu trì. Trong khi giáo dục con cái theo luân lý Ki-tô giáo, cha mẹ phải vun trồng và bảo vệ các mầm non ơn gọi tu trì trong tâm hồn chúng.

(b). Các hội dòng được phép tuyên truyền cho hội dòng mình để cổ võ ơn kêu gọi và tìm các ứng sinh, nhưng phải hành động với sự khôn ngoan cần thiết và tuân giữ những tiêu chuẩn do Toà Thánh và các đấng bản quyền đã ban hành.

(c). Tuy nhiên, các tu sĩ hãy nhớ rằng : gương sáng của đời sống mới là lời giới thiệu hùng hồn nhất cho hội dòng mình và là lời mời gọi tốt nhất để gia nhập đời tu.
  1. Kết luận. Các hội dòng đã được Thánh Công Đồng có ý đề cập đến khi ấn định những tiêu chuẩn canh tân thích nghi này, hãy mau mắn đáp ứng ơn thiên triệu và phận vụ mình trong Giáo Hội thời hiện tại. Thực vậy, Thánh Công Đồng ngưỡng mộ cuộc sống trinh khiết, khó nghèo và vâng lời của họ, đó là cách sống chính Chúa Ki-tô đã nêu gương ; Thánh Công Đồng vững lòng kỳ vọng nơi những công cuộc rất hữu hiệu của họ, dù âm thầm hay công khai. Vậy, hết thảy các tu sĩ hãy nhờ đức tin trọn hảo, đức mến Chúa yêu người, lòng mến thánh giá và niềm cậy trông vinh quang đời sau, mà truyền bá Phúc Âm Chúa Ki-tô trên toàn thế giới, để mọi người thấy dấu chứng của họ mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời (x. Mt 5,16). Như thế, nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất dịu hiền, Mẹ Thiên Chúa, mà cuộc đời của Mẹ là khuôn mẫu cho mọi người”, các hội dòng mỗi ngày một bành trướng và trổ sinh những hoa trái cứu độ dồi dào hơn.
======== 

Tác giả: thtscgs

Nguồn tin: Vat.II

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Đức cố Giám mục Phaolô
Đức Cha Nguyễn Văn Hòa
Ông Nội khả kính:
- Đón nhận
- Khích lệ
- Thiết lập Tu Hội TSCG thành Hiệp Hội Công tiến tới Tu Hội Đời ngày 30.11.1994.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây